Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01/03/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh N mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2024/TLST-HS ngày 07/02/2024. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST-HS ngày 19/02/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân H, sinh năm 1999, tại N; giới tính: nam; nơi cư trú: thôn B, xã N, huyện H, tỉnh N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hoá: 11/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Nguyễn Văn T và con bà Vũ Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 27/12/2023 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1974. Trú tại: thôn B, xã N, huyện H, tỉnh N (có mặt) Người làm chứng: anh Phạm Văn K (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Xuân H, sinh năm 1999, trú tại thôn Phong Phú, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N, nơi ở hiện nay thôn Bãi Trữ, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N là người nghiện ma túy. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 19/12/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Xuân H dùng số điện thoại 0985.371.xxxx gọi điện thoại cho nam thanh niên có số điện thoại 0941.871.xxxx (không biết tên, tuổi, địa chỉ) để mua 500.000 đồng ma túy đá. Nam thanh niên đồng ý và hẹn H đến khu vực Quốc lộ 1A gần cổng làng La Mai thuộc thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N để lấy ma túy. Sau khi gọi điện xong H đi bộ từ nhà bố đẻ thuộc thôn Phong Phú, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N ra khu vực đã hẹn. Đến nơi H gặp nam thanh niên hỏi “ma túy đâu anh?” thì người này nói “đưa tiền đây”. H đưa cho nam thanh niên 500.000 đồng, người này nhận tiền và đưa cho H 01 gói được bọc bằng khẩu trang màu trắng. H mở ra thấy có 01 túi ma túy đá bên trong mua được ma túy H cất vào túi áo bên phải và đi bộ ra đường để tìm nơi sử dụng. Khi đi được khoảng 100m thì bị Tổ công tác Công an xã Ninh Xuân phối hợp với Công an xã Ninh Giang đang làm nhiệm vụ tại trục đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N yêu cầu kiểm tra. H đã tự giác giao nộp cho Tổ công tác 01 gói được bọc bằng khẩu trang màu trắng bên trong chứa 01 túi nilon màu trắng trong có viền miệng túi mở màu đỏ có kích thước (1,5x1,5)cm bên trong cùng chứa chất tinh thể màu trắng đang ở trong túi áo khoác bên phải đang mặc và khai nhận đó là ma túy đá mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành thu giữ và niêm phong túi ma túy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A10 màu xanh số seri R58M75Z4R5H bên trong lắp sim số 0985.371.xxxx theo quy định của pháp luật, sau đó đưa H cùng tang vật và mời người làm chứng về trụ sở Công an xã Ninh Giang, huyện H để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân H có khối lượng 0,36 gam, đánh ký hiệu M1 gửi đi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 50/KL- KTHS - MT ngày 26/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N kết luận:

Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,3536 gam, là ma túy, loại Methampetamine.

Methampetamine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục IIC, số thứ tự 247; Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Quá trình điều tra Nguyễn Xuân H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKSHL ngày 06/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

[1]. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày tạm giữ từ ngày 19/12/2023.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.

[2]. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,2830 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau khi gửi đi giám định cùng toàn bộ phong bì niêm phong, vỏ gói ban đầu; 01 khẩu trang Y tế mầu trắng, 01 túi nilon mầu trắng, 01 sim điện thoại số 0985371xxxx nhãn hiệu 4G Viettel, số ICCID 8984048000932882901.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.

Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân H đã khai nhận như sau: Do muốn có ma túy để sử dụng nên khoảng 14 giờ 30 phút ngày 19/12/2023, H đã đi bộ ra khu vực cổng làng thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H mua của người đàn ông không quen biết 500.000 đồng được 0,3536 gam ma túy, loại Methampetamine. Mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì khoảng 14 giờ 45 phút tại trục đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn La Mai, xã Ninh Giang, huyện H bị Tổ công tác Công an xã Ninh Xuân phối hợp với Công an xã Ninh Giang đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định số số 50/KL- KTHS - MT ngày 26/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh N và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ cơ sở pháp lý khẳng định bị cáo có hành vi cất dấu 0,3536 gam, là ma túy, loại Methampetamine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a,................ b, ...............

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d, ...........................

2...

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi nêu trên của bị cáo là cố ý và gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Bản thân bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình bị Nhà nước cấm. Bị cáo nhận thức được nghiện ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay, đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi mua bán ma túy bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện điều đó, chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật.

[2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; khi bị yêu cầu kiểm tra đã tự giác giao nộp ma túy, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt là phù hợp.

[3]. Về hình phạt: từ sự phân tích về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa nên cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Về các vấn đề khác:

[4.1] Về nguồn gốc số Heroine thu giữ của Nguyễn Xuân H, H khai mua của một nam thanh niên không quen biết, không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực Quốc lộ 1A gần cổng làng La Mai, xã Ninh Giang, huyện H, tỉnh N nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[4.2] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tuy nhiên, bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích kiếm lời nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4.3]. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- Đối với 0,2830 gam ma túy, loại Methamphetamine vật chứng còn lại thu giữ của Nguyễn Xuân H là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

- 01 khẩu trang Y tế mầu trắng, 01 túi nilon mầu trắng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 sim điện thoại số 0985371xxxx nhãn hiệu 4G Viettel, số ICCID 8984048000932882901 bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A10 màu xanh số seri R58M75Z4R5H bên trong lắp sim số 0985.371.xxxx, quá trình điều tra xác định điện thoại này là của bà Vũ Thị H (mẹ của H). Bà H cho H mượn điện thoại trên từ tháng 11/2023 để sử dụng. Bà H không biết H sử dụng điện thoại trên để liên lạc mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả lại chiếc điện thoại trên cho bà H là có căn cứ, đúng quy định.

- Đối với số điện thoại 0941.871.xxxx, quá trình điều tra đã xác định là của chị Đỗ Thị L, sinh năm 1986, trú tại xóm 6, xã Khánh Thủy, huyện Yên Khánh, tỉnh N. Chị L khẳng định không đăng ký, không sử dụng số điện thoại 0941.871.xxxx, chị L không biết ai đã dùng thông tin cá nhân của mình để đăng ký số điện thoại trên; mặt khác chị L không quen biết và cũng chưa gặp và liên hệ với ai tên là Nguyễn Xuân H. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19/12/2023.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,2830 gam ma túy, loại Methamphetamine là vật chứng còn lại thu giữ của Nguyễn Xuân H cùng toàn bộ phong bì niêm phong, vỏ gói ban đầu, 01 khẩu trang y tế mầu trắng, 01 túi nilon mầu trắng, 01 sim điện thoại số 0985371xxxx nhãn hiệu 4G Viettel, số ICCID 8984048000932882901 và phong bì niêm phong ban đầu.

(Đặc điểm các vật chứng như biên bản giao vật chứng giữa công an huyện H và chi cục thi hành án huyện H ngày 07/02/2024).

3. Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về