TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 04/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2024/HSST ngày 30/01/2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXXST-QĐ ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vàng A C; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1977, tại tỉnh Y; Nơi thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 01/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Họ tên bố: Vàng Nẩu K (đã chết); Họ tên mẹ: Hờ Thị D (đã chết); Vợ: Sùng Thị C, sinh năm 1979; Con: có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2005;
Tiền án: 01 tền án về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, tại bản án số 17/2021/HS-ST ngày 08/3/2021 của Toà án nhân dân huyện K, xử phạt 02 năm 03 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 21/9/2022, chưa được xoá án tích;
Tiền sự: 01 tiền sự tại Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày 26/5/2023, của Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K ra Quyết định cai nghiện ma tuý tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, thời gian từ ngày 26/5/2023 đến ngày 26/5/2024, Vàng A C chưa chấp hành xong.
Nhân thân: Ngày 15/12/2017, bị Toà án nhân dân huyện K, ra Quyết định số 15/2017/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, Vàng A C đã chấp hành xong; Ngày 27/3/2018, bị Công an huyện K ra Quyết định số 18/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, Vàng A C chưa chấp hành Quyết định.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2023 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)
Những người tham gia tố tụng khác:
Người bào chữa: Ông Phùng Văn H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Đ. Bào chữa cho bị cáo.(Có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người làm chứng: Ông Xổng A S, Ông Hờ A P (Đều vắng mặt) Cùng trú tại: Thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Vàng A C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 04/11/2023, tại thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đ, tổ công tác của Công an huyện K phối hợp cùng Công an xã E bắt quả tang Vàng A C, sinh năm 1977 đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo phía trước Vàng A C đang mặc 01 gói nylon màu xanh, bên trong chứa chất rắn màu trắng. Vàng A C khai nhận chất rắn màu trắng bị thu giữ là chất ma túy Heroine, được Vàng A C mua vào lúc 06 giờ cùng ngày của một người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực trung tâm thôn G, xã E với giá 100.000 đồng, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời tạm giữ của Vàng A C: 01 gói nylon màu xanh, bên trong chứa chắt rắn màu trắng (được niêm phong theo quy định của pháp luật).
Tại Bản kết luận giám định số: 1364/KL-KTHS ngày 09/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận: Chất rắn màu trắng bên trong 01 gói nylon màu xanh được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,1185 gam, loại: Heroine (Heroin); Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,0927 gam.
Tang vật vụ án: 0,0927 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong.
Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 29 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố Vàng A C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Vàng A C thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.
Phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đã công bố. Sau khi chứng minh hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đã đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A C từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 0,0927 gam Heroine còn lại sau giám định.
Bị cáo Vàng A C không tranh luận cũng như trình bày gì thêm với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Bản luận cứ Trợ giúp viên bào chữa cho bị cáo: Về tội danh đồng quan điểm về việc truy tố theo cáo trạng của đại diện viện kiểm sát, về hình phạt đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị, bởi vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng sa, kinh tế đặc biệt khó khăn.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Xét hành vi của bị cáo do nghiện ma túy, nên Vàng A C có hành vi tàng trữ trái phép 0,1185 gamma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông N phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điểm c khoản 1Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
….
c) Heroine……..có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
….” [3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo thực hiện hành vi khi có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và xâm phạm đến việc quản lý chất cấm của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đang có tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy và đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục tàng trữ 0,1185 gam heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, do đó cần phải xử lý nghiêm là cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có kinh tế khó khăn được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đang có tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn vì vậy miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 0,0927 gam Heroine (còn lại sau giám định).
[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn nộp án phí.
[9] Trong vụ án này còn có đối tượng người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, hiện Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên đã tách ra khi nào xác minh được thì xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Vàng A C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
1. Xử phạt: Bị cáo Vàng A C 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/11/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu, tiêu hủy 0,0927 gam Heroine (còn lại sau giám định).
(Đặc điểm tang vật theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/01/2024 giữa Cơ quan điều tra và Thi hành án dân sự huyện K) 3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Vàng A C được miễn toàn bộ phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST
Số hiệu: | 14/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về