TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩNguyễn Văn Công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn C, tên gọi khác: Không, sinh năm 1998, tại M C, Sơn La.
Địa chỉ: Bản L N 2, xã M S, huyện M C, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Tvà bà Lường Thị L; bị cáo chưa có vợ con.
* Tiền án: Không.
* Tiền sự: Ngày 17/6/2020 tòa án nhân dân huyện M C quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn C, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 16/6/2022.
* Nhân thân:
- Ngày 03/11/2015 Tòa án nhân dân huyện M C, tỉnh Sơn La áp dụng khoản 1 điều 194, điểm p, q khoản 1 điều 46, khoản 5 điều 69, điều 74, điều 20, điều 53 BLHS 1999 xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, án phí HSST 200.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 28/5/2017, chấp hành xong án phí ngày 16/12/2015.
- Ngày 29/01/2019 Tòa án nhân dân huyện M C, tỉnh Sơn La áp dụng khoản 1 điều 178, điểm b, i, s khoản 1 điều 51 BLHS 2015 xử phạt 09 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, án phí HSST 200.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 06/9/2019, chấp hành xong án phí ngày 18/3/2019.
Bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 14/8/2023 cho đến nay. Có mặt.
Người có QLNVLQ: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975; địa chỉ: Bản L N 2, xã M S, huyện M C, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 45 phút, ngày 14/8/2023, tại Cây xăng thuộc bản L L, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Tổ công tác Công an huyện VH kiểm tra phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn C tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ trong lòng bàn tay trái của Nguyễn Văn C 01 lọ đựng 10 nén màu hồng, bề mặt có dập nổi chữ WY, C khai nhận đó là Hồng Phiến (Methamphetamine) mua về sử dụng. Nguyễn Văn C bị lập biên bản phạm tội quả tang, tạm giữ số ma túy cùng 01 xe máy BKS 26K5- xxxx và 01 mũ bảo hiểm, đồng thời bị dẫn giải cùng tang vật về Cơ quan điều tra để xử lý.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Văn C khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 18 giờ 30, ngày 14/8/2023, C điều khiển xe máy BKS 26K5- xxxx đi từ nhà đến xã L L, huyện VH, tìm mua ma túy sử dụng. Đang đi trên đường dân sinh bản L L, xã L L, C gặp và hỏi mua của một người đàn ông, dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi được 10 viên Hồng Phiến với giá 300.000 đồng. Mua được ma túy, C cầm trong lòng bàn tay trái, rồi điều khiển xe máy quay về. Trên đường về, C dừng xe mua xăng tại cây xăng thuộc bản L L, thì bị Tổ công tác công an huyện VH kiểm tra, bắt quả tang.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh 10 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn C xác định được tổng khối lượng là 1,11 gam, lấy toàn bộ gửi giám định, ký hiệu C.
Kết luận giám định số 2021/KLMT ngày 18/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu giám định ký hiệu C là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,11 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 1,11 gam, loại Methamphetamine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra xác định được: Bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo. Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với người này.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 26K5 – xxxx và 01 mũ bảo hiểm, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra xác minh là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn T(bố đẻ bị cáo). Ngày 14/8/2023 C mượn xe máy và mũ bảo hiểm nói đi việc riêng. Ông Nguyễn Văn T không biết việc Nguyễn Văn C dùng tài sản trên vào việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại xe và mũ bảo hiểm cho ông Nguyễn Văn T. Ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
Cáo trạng số 123/CT – VKS ngày 31/10/2023 của VKSND huyện VH, truy tố Nguyễn Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn bảo vệ nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Nguyễn Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy * Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn C từ 24 đến 30 tháng tù.
+ Không Phạt bổ sung đối với bị cáo;
Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong, dán kín bên trong đựng 01 Lọ nhựa màu trắng, nắp đậy màu trắng + 01 phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong đựng Que thử ma túy đối với Nguyễn Văn C;
+ Chấp nhận CQĐT Công an huyện VH đã trả lại ông Nguyễn Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 26K5 – xxxx và 01 mũ bảo hiểm. Chấp nhận việc ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
+ Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 14/8/2023, Nguyễn Văn C bị phát hiện bắt quả tang tàng trữ 10 viên Hồng Phiến, tổng khối lượng 1,11 gam, Ckhai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ với giá 300.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, hỏi cung, bản tự khai của bị cáo, Kết luận giám định chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa...
[2] Tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hiểNguyễn Văn Cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân phát sinh tội phạm khác. Bị cáo nghiện ma túy, đã từng bị xử phạt tù, cai nghiện bắt buộc, nhưng không lấy làm bài học cho bản thân. Do vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên được xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.
[4] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. HĐXX xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Điều tra viên, Kiểm sát viên chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5]Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS, bị cáo có thể bị phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6]Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong, dán kín bên trong đựng 01 Lọ nhựa màu trắng, nắp đậy màu trắng + 01 phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong đựng Que thử ma túy đối với Nguyễn Văn C, là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.
01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 26K5 – xxxx và 01 mũ bảo hiểm, đã qua sử dụng, bị cáo dùng vào việc phạm tội, là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn T (bố bị cáo). Ông T không biết và không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo. Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông T chiếc xe mô tô và mũ bảo hiểm trên để quản lý, sử dụng là phù hợp, được chấp nhận.
[7] Về dân sự của vụ án: Ông Nguyễn Văn T đã được Cơ quan điều tra trả lại xe máy và mũ bảo hiểm, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Do vậy, HĐXX không đặt vấn đề về trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với ông Nguyễn Văn Ttrong vụ án này.
[8]Về nguồn gốc chất ma túy: Người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo trên đường dân sinh bản L L, bị cáo không biết tên, địa chỉ. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án này, không đặt vấn đề giải quyết.
Bị cáo phạm tội, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 14/8/2023.
Không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 47 BLHS, điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong, dán kín bên trong đựng 01 Lọ nhựa màu trắng, nắp đậy màu trắng + 01 phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong dán kín, bên trong đựng Que thử ma túy đối với Nguyễn Văn C.
Theo biên bản giao vật chứng số: 16/BBVC - CCTHA, ngày 09 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.
+ Chấp nhận việc CQĐT đã trả lại ông Nguyễn Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius BKS 26K5 – xxxx và 01 mũ bảo hiểm, đã qua sử dụng. Chấp nhận việc ông Nguyễn Văn T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có QLNVLQ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2023/HS-ST
Số hiệu: | 14/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về