Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Bùi Văn C, sinh ngày 15/3/1996. Tại: Y – L – Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm T, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn R, sinh năm 1971 và bà Bùi Thị Ì, sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: ngày 10/01/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/11/2022, tạm giam từ ngày 23/11/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Bùi Văn T, sinh ngày 02/9/1996. Tại: Y – L – Hòa Bình; Nơi cư trú:

xóm C, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T, sinh năm 1964 và bà Bùi Thị V, sinh năm 1970; Bị cáo có vợ là Bùi Thị N, sinh năm 1995 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/11/2022, tạm giam từ ngày 23/11/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

+ Bà Hoàng Thanh T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Tổ 9, Phường K, thành phố H, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Ông Bùi Văn T, sinh năm 1964; Địa chỉ: xóm C, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Đồng Văn T, sinh năm 1969; Địa chỉ: Phố T, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Ông Phạm Hải S, sinh năm 1965; Địa chỉ: Phố H, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào thời gian khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 14/11/2022 bị cáo Bùi Văn T, sinh năm 1996; Nơi thường trú: xóm C, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô BKS 28S3-59XX từ nhà ra thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình chơi. Khi đi đến thị trấn bị cáo Tú gặp bạn là bị cáo Bùi Văn C, sinh năm 1996; Nơi thường trú: xóm T, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Sau khi gặp nhau hai bị cáo T và C rủ nhau cùng đi mua ma túy về sử dụng; trong quá trình đi tìm mua ma túy hai bị cáo đã gặp một người đàn ông không quen biết và đã mua được ma túy từ người đàn ông này với số tiền là 1000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được số ma túy trên bị cáo C là người trực tiếp cầm ma túy trên tay còn bị cáo T điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để cùng nhau sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 15/11/2022 tại đoạn đường thuộc khu vực Phố Hữu Nghị - TT, Vụ Bản – Huyện Lạc Sơn – Tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn và Công an thị trấn Vụ Bản kiểm tra, phát hiện và thu giữ bên trong lòng bàn tay trái của C 02 (Hai) gói giấy bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T và C đều khai nhận đó là ma túy, hai bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân); Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng đưa các bị cáo về trụ sở Công an huyện để điều tra làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo Vật chứng thu giữ và quá trình xử lý vật chứng: 01 chiếc xe mô tô BKS 28S3-59XX. Hiện cơ quan điều tra đã xử lý bằng biện pháp trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Bùi Văn Tấn (Bố đẻ của bị cáo Bùi Văn T).

Tại kết luận giám định số: 324/KL-KTHS ngày 22/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng trong 02 gói giấy ký hiệu G1, G2 trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Bùi Văn T, sinh năm 1996 và Bùi Văn C, sinh năm 1996” gửi giám định có tổng khối lượng là 0,38g (Không phẩy ba mươi tám gam) là ma túy loại Heroin (Heroine).

Tại Bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 28/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn C về tội:” Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho hai bị cáo trong quá trình điều tra không xác định được danh tính người này nên không có căn cứ để xử lý do đó, cáo trạng không đề cập xử lý đối với những người này.

Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Lạc Sơn, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội:

Giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 249 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Bùi Văn C và Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đề nghị :

-Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58, Điều 56, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn C từ 27 đến 30 tháng tù; và tổng hợp hình phạt tại bản án số 01/2022/HS- ST ngày 10/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/11/2022.

- Đề không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;

- Về tang vật của vụ án: Đối với chiếc xe mô tô BKS 28S3-59XX là tài sản đã được Cơ quan điều tra thu hồi và đã trả lại cho chủ sở hữu là hợp pháp nên không đề nghị xem xét.

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, xuất hủy 02 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình mép dán có chữ ký của bị cáo Bùi Văn T; bị cáo Bùi ăn C và giám định viên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: là bà Hoàng Thanh Tâm và ông Bùi Văn Tấn không có yêu cầu gì đối với các bị cáo nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng phản ánh; các bị cáo nhận tội, không kêu oan và đều xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội và hình phạt: Lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng thời gian 00 giờ 30 phút ngày 15/11/2022 tại đoạn đường thuộc Phố Hữu Nghị, thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình cơ quan Công an huyện Lạc Sơn kết hợp với Công an thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn đã bắt quả tang bị cáo Bùi Văn T và bị cáo Bùi Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 0,38g (Không phảy ba mươi tám gam) ma túy loại Heroin để sử dụng. Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình truy tố đối với các bị cáo Bùi Văn C và Bùi Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, các bị cáo là trụ cột của gia đình đáng nhẽ các bị cáo phải tu trí làm ăn, làm gương cho con cái, Song vì đều là người nghiện ma túy và cần có chất ma tuý để sử dụng cho bản thân nên các bị cáo vẫn cố tình, bất chấp quy định cấm của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần phải có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Trong vụ án các bị cáo đã cùng nhau thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, các bị cáo nảy sinh ý định phạm tội tức thì, không có sự bàn bạc từ trước, không có phân công phân nhiệm, kế hoạch rõ ràng nên chỉ đồng phạm giản đơn.

Xét mức độ hành vi phạm tội và cá thể hóa vai trò của từng bị cáo:

- Đối với bị cáo Bùi Văn C: Khi gặp và nói chuyện với bị cáo Bùi Văn T cùng rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng, trực tiếp bỏ toàn bộ số tiền 1.000.000 đồng để mua ma túy, sau khi mua được ma túy bị cáo là người trực tiếp cầm cất giấu ma túy, vì vậy bị cáo là người giữ vai trò tích cực; hơn nữa trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Bùi Văn C có 01 tiền án ngày 10/01/2022 tại Bản án số 01/2022/HS- ST bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đang chấp hành thời gian thử thách nay lại phạm tội mới. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét cần phải xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian đồng thời cần tổng hợp hình phạt của Bản án số 01/2022/HS-ST với bản án này để cải tạo, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng đã cân nhắc : Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải ; bị cáo là người dân tộc thiểu số và sinh sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

- Đối với bị cáo Bùi Văn T: Là người cùng bị cáo Bùi Văn C nói chuyện và cùng đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo là người trực tiếp điều khiển xe mô tô chở bị cáo C đi mua ma túy, sau đó đưa cho bị cáo Bùi Văn C cầm và đi tìm nơi để sử dụng. Vì vậy bị cáo giữ vai trò đồng phạm giản đơn . Hội đồng xét xử xét cần phải xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng đã cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội : bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải ; bị cáo là người dân tộc thiểu số và sinh sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

[ 4] Về hình phạt bổ sung: Đối với hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, Xét thấy, theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thể hiện các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, gia đình không có tài sản gì có giá trị nên không có khả năng thi hành. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông mà các bị cáo khai đã được mua ma túy ngày 14/11/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6] Về tang vật của vụ án:

- Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 28S3- 59XX đã được Cơ quan điều tra trả lại cho ông Bùi Văn Tấn là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với tang vật khác : Xét cần thiết phải tịch thu, xuất hủy 02 mẫu chất ma túy, loại Heroin có tổng trọng lượng sau khi giám định là 0,29gam cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công án tỉnh Hòa Bình, hiện đàn bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, bị buộc trách nhiệm dân sự nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn C và Bùi Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58, Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 : Xử phạt bị cáo Bùi Văn C 27 (hai mươi bảy) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 18 (mười tám) tháng tù tại Bản án số 01/2022/HS-ST ngày 10/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn và hình phạt của bản án này, Buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai bản án là 45 (bốn mươi lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/11/2022.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/11/2022.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong nguyên vẹn mẫu giám định chất ma túy của Công an tỉnh Hòa Bình. Trên phong bì ghi mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Bùi Văn C và Bùi Văn T - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 15/11/2022 tại xãThị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Mép dán có dấu và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Lạc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn 27 ngày 01/03/2023).

3.Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Bùi Văn C và Bùi Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2023/HS-ST

Số hiệu:14/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về