Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 14/2022/HSST NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 8/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2022/TLST - HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2022/QĐXXST – HS ngày 24 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đình H, sinh năm 1995, tại xã N H, huyện H L, tỉnh N B; nơi cư trú: thôn Á Ng, xã N H, huyện H L, tỉnh N B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân H và bà Nguyễn Thị Thúy L; vợ, con: chưa có; tiền án: Tại Bản án số 16/2020/ HSST ngày 18/02/2020 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 21 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Ngày 26/02/2021 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và bản án; tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 12/11/2021 chuyển tạm giam; hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

2. Phạm Hoàng H1, sinh năm 1997, tại xã N H, huyện H , tỉnh N B; nơi cư trú: thôn Q V, xã N H, huyện H L, tỉnh N B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Ng và bà Vũ Thị T; vợ là Nguyễn Vân A (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2019; tiền án: không; tiền sự: không. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đã bị xóa tên trong danh sách đảng viên theo Quyết định số 1209-QĐ/HU ngày 9/3/2022 của Ban Thường vụ huyện ủy Hoa Lư. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/11/2021 đến ngày 11/11/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 05/2022/LCCT - TA ngày 07/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên Mô. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Phan Thị H2, sinh năm 1999, vắng mặt.

2. Anh Phạm Xuân H3, sinh năm 2000, vắng mặt.

3. Anh Lã Huy H4, sinh năm 1994, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì vụ án có nội dung như sau:

Nguyễn Đình H là đối tượng sử dụng ma túy, chiều ngày 03/11/2021 Nguyễn Đình H thuê xe taxi đi sang thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định mua của một người đàn ông không quen biết 04 viên ma túy dạng viên nén màu hồng nhạt thường gọi là “kẹo” đựng trong 01 túi nilon trong suốt với giá 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). H lấy 01 viên ma túy bẻ ra làm 2 phần rồi bỏ một phần vào miệng, phần còn lại H bỏ vào cùng với 03 viên ma túy đựng trong túi nilon cho vào túi quần phía trước bên phải rồi đi về phòng trọ ở phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình.

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 04/11/2021 H1 đang ở phòng trọ thì Phạm Hoàng H là bạn của H1 sử dụng sim điện thoại số thuê bao 0964935666 lắp trong điện thoại Iphone 12 Promax 128Gb gọi đến sim điện thoại số thuê bao 0767354444 lắp trong chiếc điện thoại Nokia 1280 của H hỏi: “có ma túy không”; H trả lời: “có” và hẹn H1 đến nhà nghỉ Thùy Trinh ở xóm 7, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô để H đưa ma túy, H1 đồng ý. Hào gọi điện thoại cho Lã Huy H3, sinh năm 1994 trú tại thôn Vũ Xá, xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình là quản lý của nhà nghỉ Thùy Trinh để thuê 01 phòng nghỉ. Sau đó H gọi điện lại cho H1 chỉ đường cho H1 đến nhà nghỉ Thùy Trinh.

Phạm Hoàng H đã gọi điện thoại rủ Phan Thị H2, sinh năm 1999 trú tại Thanh Chi, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đi chơi, H2 đồng ý. H1 đi xe taxi đến phòng trọ của H2 tại Cầu Huyện, thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư đón H2 rồi cả hai đến nhà nghỉ Thùy Trinh. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, H1 và H2 đến nhà nghỉ Thùy Trinh thì được Phạm Xuân H4 là người được Hậu giao trông coi nhà nghỉ dẫn vào phòng nghỉ 101. H1 và Phan Thị H2 nằm nói chuyện trên 02 chiếc đệm đặt tại nền phòng nghỉ. Khoảng 30 phút sau thì H1 nhận được điện thoại của H hỏi đã đến nhà nghỉ chưa, H1 trả lời đang ở phòng 101 nhà nghỉ Thùy Trinh. H đang ở phòng trọ cùng bạn gái tên là V (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể) nên H rủ V đi cùng. thuê xe taxi cùng V đến nhà nghỉ Thùy Trinh. Đến nhà nghỉ H hỏi anh Phạm Xuân H4 thì anh H4 nói H1 và H2 đang ở trong phòng 101. Khi đến phòng 101 thấy cửa không chốt H, V liền mở cửa đi vào trong phòng thấy H1 và H2 đang nằm trên đệm giáp nhà vệ sinh. V đứng gần cửa ra vào, H ngồi xuống đệm cạnh đệm H1 và H2 đang nằm. H ngồi xuống đệm thì H1 ngồi dậy; H dùng tay phải móc từ trong túi quần phía trước bên phải ra 01 túi nilon chứa 03 viên nén và 01 mảnh vỡ của viên ma túy đưa cho H1. H1 nhận túi ma túy rồi hỏi “hết bao nhiêu tiền”; H trả lời “cứ chơi đi” không lấy tiền. Sau đó H, V đi về còn H1 cầm túi nilon bên trong chứa 03 viên nén và 01 mảnh vỡ của viên ma túy để lên chiếc đệm đang nằm rồi tiếp tục cùng H2 nằm ngủ. Đến khoảng 21 giờ 35 phút cùng ngày tổ công tác Công an huyện Yên Mô tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ Thùy Trinh, lúc này H1 và H2 đang ở trong phòng nghỉ 101, quá trình kiểm tra phát hiện 01 túi nilon bên trong chứa 03 viên nén và 01 mảnh vỡ của viên ma túy H1 vẫn để trên mặt đệm đặt trong phòng nghỉ 101.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc, ngay tại chỗ tổ công tác đã thu giữ và niêm phong 01 túi nilon trong suốt, miệng túi có khóa kẹp nhựa viền màu đỏ, trên bề mặt túi có in chữ màu xanh “NHẤT TÂM PHARMA JSC”, “SỨC KHỎE LÀ VÀNG”, “CÔNG TY DƯỢC PHẨM NHẤT TÂM”, “Hotline 0368784558”, “Lưu hành nội bộ”, kích thước túi (11,2 x 6,8) cm, bên trong túi có chứa 03 viên nén và 01 mảnh vỡ đều màu hồng nhạt, trên bề mặt có in hoa văn chìm.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường tại phòng 101 của nhà nghỉ Thùy Trinh, cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Yên Mô đã thu giữ 01 chiếc loa màu đen kích thước (22 x 15 x 18) cm; 01 chiếc đèn nháy màu đen kích thước (22 x 15 x 9) cm; 01 chiếc đèn nháy màu xanh kích thước (22 x 15 x 9)cm; 01 chiếc đèn nháy bằng nhựa màu đen kích thước (15,5 x 15,5 x 7,5)cm.

Quá trình điều tra Phạm Hoàng H1 đã giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax 128 Gb lắp sim 0964935666; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X 64 Gb sắp sim 0901129688; 01 Chứng minh nhân dân số 164589750 mang tên Phạm Hoàng H1 và tổng số tiền 3.060.000 đồng. Phan Thị H2 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu vàng lắp sim 0346150059. Nguyễn Đình H giao nộp 01 Căn cước công dân số 037095007360 mang tên Nguyễn Đình H.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô đã ra quyết định trưng cầu giám định, định tính và định lượng đối với 03 viên nén và 01 mảnh vỡ đều màu hồng nhạt thu giữ của Phạm Hoàng H1.

Tại bản kết luận giám định số 831/KLGĐ – PC09-MT ngày 08/11/2021 của Phòng ký thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình: Mẫu gửi đi giám định ký hiệu N gồm 03 viên nén in hình hoa văn chìm và 01 mảnh vỡ đều màu hồng nhạt có khối lượng 1,5107 gam, là ma túy loại MDMA.

MDMA là chất ma túy có số thứ tự 27 thuộc bảng danh mục I; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 1,4208 gam là ma túy loại MDMA và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong (tất cả được niêm phong trong phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 831/KLGĐ - PC09- MT).

Ngày 10/11/2021 Nguyễn Đình H đã đến Công an huyện Yên Mô đầu thú. Quá trình điều tra, Phạm Hoàng H1 và Nguyễn Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 13/CT– VKS ngày 04/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình H từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 10/11/2021.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Hoàng H1 từ 6 (sáu) đến 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/11 /2021 đến ngày 11/11/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 – Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 – Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa 1,4208 gam ma túy loại MDMA cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì dán niêm phong bên trong có chứa 01 phong bì giấy, 01 túi ni lông trong suốt có KT (11,2 x 6,8) cm, chiếc sim điện thoại có số 09649356666 thu của Phạm Hoàng H1

- Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước chiếc điện thoại Iphone 12 Promax 128G thu của Phạm Hoàng H1.

- Trả lại cho Phạm Hoàng H1 chiếc điện thoại Iphone X 64 Gb cùng sim số 0901129688 và số tiền 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

Về án phí: áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa các bị cáo H, H1 đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo H và H1 đều thừa nhận ngày 4/11/2021 tại nhà nghỉ Thùy Trinh ở xã Mai Sơn huyện Yên Mô, Nguyễn Đình H có đưa cho H1 một túi nilon bên trong có 3,5 viên ma túy, thường gọi là kẹo. Do Phạm Hoàng H1 đang say rượu nên chưa kịp sử dụng thì bị Công an huyện Yên Mô bắt, thu giữ toàn bộ số ma túy trên. Bị cáo H và H1 đều thừa nhận số ma túy cơ quan điều tra thu trên chiếc đệm tại phòng 101 nhà nghỉ Thùy Trinh là ma túy của H vừa cho H1.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 đều nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, sau khi phạm tội rất ân hận về việc làm của mình, bị cáo H1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm trở về làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người người làm chứng, biên bản sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định số 831/KLGĐ – PC09-MT ngày 08/11/2021 của Phòng ký thuật hình sự - Công an tỉnh Ninh Bình và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 04/11/2021 tại phòng 101 của nhà nghỉ Thùy Trinh ở xóm 7, xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Đình H có hành vi đưa cho Phạm Hoàng H1 1,5107 gam ma túy loại MDMA để Phạm Hoàng H1 sử dụng. Sau khi nhận gói ma túy từ H đưa cho, H1 đã để gói ma túy trên chiếc đệm cạnh vị trí H1 đang nằm ngủ mục đích để sử dụng cho bản thân; đến 21 giờ 35 phút cùng ngày Công an huyện Yên Mô tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ phát hiện lập biên bản, thu giữ số ma túy trên của Phạm Hoàng H1.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, các bị cáo nhận thức rõ được Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 1,5107 gam ma túy loại MDMA để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tôi phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c. Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetanmine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...” Bản Cáo trạng số 13/CT– VKS ngày 04/3/ 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Nguyễn Đình H, ngày 18/02/2020 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 21 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” đến ngày thực hiện hành vi phạm tội lần này bị cáo chưa được xóa án tích. Do vậy bị cáo H bị áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phạm Hoàng H1 không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo H, H1 đều thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Bị cáo H1 trước khi thực hiện hành vi phạm tội đã có thành tích xuất sắc trong học tập được Tổng cục trưởng tổng cục chính trị Công an nhân dân tặng “Bằng khen”; bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra công an huyện Hoa Lư phát hiện xử lý tội phạm; bà nội bị cáo H1 là người có công với cách mạng nên bị cáo Phạm Hoàng H1 được áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại các điểm t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo H sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, bị cáo đã tự giác đến Cơ quan điều tra đầu thú về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, việc các bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn công cộng, đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của con người, cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

Bị cáo Phạm Hoàng H1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử cho bị cáo H1 được hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

[5] Trong vụ án này, anh Lã Huy H4 là quản lý nhà nghỉ Thùy Trinh cho Phạm Hoàng H1 thuê phòng nghỉ 101, quá trình Nguyễn Đình H giao ma túy cho Phạm Hoàng H1 và H1 cất giữ ma túy trong phòng nghỉ anh H4 không biết nên anh Lã Huy H4 không vi phạm pháp luật.

Chị Phan Thị H2 được Phạm Hoàng H1 rủ đi cùng đến nhà nghỉ Thùy Trinh, chị H2 không biết Phạm Hoàng H1 trao đổi với H đến nhà Nghỉ Thùy Trinh để nhận ma túy, khi H giao ma túy cho H1 chị H2 không biết do vậy Phan Thị H2 không vi phạm pháp luật.

Ngoài ra còn người phụ nữ tên V đi cùng H đến nhà nghỉ Thùy Trinh để H giao ma túy cho H1 tuy nhiên H chỉ biết tên V chứ không rõ tên, tuổi địa chỉ cụ thể V ở đâu nên không có cơ sở để làm việc với V.

[6] Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Đình H khai mua của một người đàn ông không quen biết tên là Q ở thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, H không biết cụ thể họ tên tuổi địa chỉ của người này, do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ điều tra xử lý.

[7] Về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc loa và 03 chiếc đèn nháy, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của nhà nghỉ Thùy Trinh do anh Lã Huy H4 quản lý; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng, lắp sim 0346150059 là tài sản hợp pháp của chị Phan Thị H2; 01 Chứng minh nhân dân và 01 Căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của Phạm Hoàng H1 và Nguyễn Đình H các tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại số tài trên cho chủ sở hữu là phù hợp với qui định của pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại Nokia 1280 bên trong lắp sim có số thuê bao 0767354444 của Nguyễn Đình H sử dụng để giao nhận ma túy với Phạm Hoàng H1, H đã làm mất do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được.

Số vật chứng còn lại gồm: một phong bì niêm phong bên trong có chứa 1,4208 gam ma túy loại MDMA cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì dán niêm phong bên trong có chứa 01 phong bì giấy, 01 túi nilon trong suốt có KT (11,2 x 6,8) cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X 64 Gb sắp sim 0901129688; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax 128Gb lắp sim 0964935666 thu giữ của Phạm Hoàng H1 Hội đồng xét xử thấy:

- Đối với một phong bì niêm phong bên trong có chứa 1,4208 gam ma túy loại MDMA cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì dán niêm phong bên trong có chứa 01 phong bì giấy, 01 túi nilon trong suốt có KT (11,2 x 6,8) cm, 01 chiếc sim điện thoại số 0964935666 được lắp trong chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 Promax 128Gb thu của Phạm Hoàng H1 sử dụng để giao dịch lấy ma túy. Đây là vật chứng chứng minh tội phạm của các bị cáo, không còn giá trị sử dụng và là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành do vậy cần áp dụng điểm a, c khoản 1 – Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 – Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng trên.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 12 Promax 128Gb H1 sử dụng để liên lạc giao dịch ma túy với H. Đây là các công cụ phương tiện để bị cáo H1 sử dụng vào việc phạm tội do vậy cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung ngân sách Nhà Nước.

Đối với số tiền 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng) cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô thu giữ của Phạm Hoàng H1; 01 chiếc điện thoại Iphone X 64 Gb cùng sim số 0901129688 là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên áp dụng khoản 3 - Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại các tài sản trên cho bị cáo Phạm Hoàng H1.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2022 giữ Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô và ủy nhiệm chi chuyển khoản lập ngày 8/3/2022).

[8] Án phí hình sự: Các bị cáo bị tuyên là có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Điều luật áp dụng:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đình H.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với Phạm Hoàng H1.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 – Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 – Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Đình H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 10/11/2021.

- Bị cáo Phạm Hoàng H1 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ 7 (Bẩy) ngày tạm giữ từ ngày 05/11/2021 đến ngày 11/11/2021.

4. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa 1,4208 gam ma túy loại MDMA cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01phong bì dán niêm phong bên trong có chứa 01 phong bì giấy, 01 túi nilon trong suốt có KT (11,2 x 6,8) cm, chiếc sim điện thoại có số 09649356666 thu của Phạm Hoàng H1

- Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước chiếc điện thoại Iphone 12 Promax 128G thu của Phạm Hoàng H1.

- Trả lại cho Phạm Hoàng H1 chiếc điện thoại Iphone X 64 Gb cùng sim số 0901129688 và số tiền 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2022 giữ Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô và ủy nhiệm chi chuyển khoản lập ngày 8/3/2022).

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đình H và Phạm Hoàng H1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

364
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HSST

Số hiệu:14/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về