Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XMTỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 11/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 113/2021/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Đào Xuân T, sinh ngày 12/10/2002 tại Khánh Hòa;

Nơi cư trú: Thôn BH1, xã NT, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Tiếp viên; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Xuân T, sinh năm: 1975 (đã chết) và bà Đào Thị Thu E, sinh năm: 1978; Bị cáo chưa có chồng, con;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giam ngày: 25/7/2021.

“Bị cáo có mặt”.

2. Huỳnh Đào Xuân T, sinh ngày: 11/10/2004 tại Khánh Hòa;

Nơi cư trú: Thôn BH1, xã NT, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Tiếp viên; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Xuân T, sinh năm: 1975 (đã chết) và bà Đào Thị Thu E, sinh năm: 1978; Bị cáo chưa có chồng, con;

1 Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giam ngày: 25/7/2021.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Huỳnh Đào Xuân T:

- Bà Đào Thị Thu E, sinh năm: 1978, nơi cư trú: Thôn BH1, xã NT, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa “có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Đào Xuân T:

- Ông Lê Minh P– Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “có mặt”.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Nguyễn Thị B, sinh năm 1993, nơi cư trú: Ấp TT, xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “có mặt”.

- Nguyễn Trung H, sinh năm 1997, nơi cư trú: Ấp 7, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “có mặt”.

Hiện đang bị tạm giam tại: Nhà tạm giữ Công an huyện XM.

- Nguyễn Văn L, sinh năm: 1992; nơi cư trú: Tổ 8, ấp LG, xã BC, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “có mặt”.

Hiện đang bị tạm giam tại: Nhà tạm giữ Công an huyện XM.

- Lê Trần Hoàng C, sinh năm: 1996; nơi cư trú: Ấp 7, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “có mặt”.

Hiện đang bị tạm giam tại: Nhà tạm giữ Công an huyện XM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 17/7/2021, Công an thị trấn Phước Bửu, huyện XM kiểm tra Khách sạn Diamond, địa chỉ: 108, đường 27/4, khu phố Phước An, thị trấn Phước Bửu, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do Nguyễn Thị Hồng Nlàm chủ; phát hiện tại phòng Master của khách sạn có 12 nam, nữ thanh niên có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy gồm: Nguyễn Trung H, Lê Trần Hoàng C, Nguyễn Văn A, Nguyễn Công T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn L, Huỳnh Đào Xuân T, Huỳnh Đào Xuân T, Văn Thị L, Nguyễn Thị Bvà Phạm Thị P.

Tang vật tạm giữ gồm: 01 đĩa sứ đường kính 20 cm, trong đĩa còn dính một ít chất bột màu trắng nghi là ma túy dạng khay, 01 đoạn ống hút được cuộn lại bằng tờ tiền 10.000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 thẻ cứng, 01 bộ loa đèn. Ngoài ra, Huỳnh Đào Xuân T còn tự giao nộp 01 gói nylon bên trong có hai nửa viên nén màu xám và khai nhận là thuốc lắc.

Vật chứng nghi là ma túy và dụng cụ để sử dụng ma túy được niêm phong theo quy định. Căn cứ Kết luận giám định số: 384/KLGĐ - PC09 ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh, không màu - trong suốt bám dính trên 01 đĩa sứ màu trắng, bám dính trong 01 đoạn ống hút được cuộn bằng tờ tiền 10.000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 thẻ cứng Master card màu vàng (mẫu A1) được niêm phong trong một túi nylon màu đỏ có tổng khối lượng 0,1476 gam, là ma túy, loại Ketamine.

- Mẫu chất kết tinh bám dính trong 02 (hai) gói nylon (mẫu A2) được niêm phong trong cùng túi nylon màu đỏ nêu trên, gửi đến không đủ để giám định, không xác định được khối lượng.

- Một viên nén lớn màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A3) có khối lượng 0,1524 gam, là ma túy, loại MDMA.

- Một viên nén nhỏ màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A4) có khối lượng 0,1179 gam, là ma túy, loại MDMA.

Cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy - quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; đối với: Nguyễn Trung H, Lê Trần Hoàng C, Nguyễn Văn A, Nguyễn Công T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn L (07 bị can) về tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy - quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự và Nguyễn Thị Hồng Nvề tội: Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy - quy định tại khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự để điều tra xử lý. Tuy nhiên thời hạn điều tra đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự) ít hơn thời hạn điều tra đối với tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự) và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự). Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện XM tách riêng để xử lý trước đối với Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của T và Th được thể hiện như sau:

Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T là hai chị em ruột, có hộ khẩu thường trú: Thôn BH1, phường NT, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa tới thuê phòng trọ tại: Ấp TT, xã PT, huyện XM để ở và làm nghề tiếp viên. Khoảng 20 giờ, ngày 16/7/2021 Thảo và T đi cùng 01 nữ tiếp viên tên Mơ không rõ lai lịch từ xã PT ra xã BC, huyện XM nhậu và sử dụng ma túy cùng với 05 người khách không rõ lai lịch. Thảo và T được một người khách bẻ viên thuốc lắc chia cho mỗi người một phần (Thảo phần nhỏ hơn phần của T) nhưng hai chị em không sử dụng, Thảo đưa cho T cất vào giỏ xách, rồi chơi tiếp đến khoảng 04 giờ sáng ngày 17/7/2021 thì trở về phòng trọ ngủ. Khoảng 15 giờ cùng ngày thì Hiếu gọi điện cho Thảo và T tới phòng Master - Khách sạn Diamon cùng sử dụng ma túy và “bay lắc” với nhiều người khác thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ. T tự lấy trong giỏ xách ra 01 gói nylon chứa hai nửa viên nén màu xám giao nộp và khai nhận là thuốc lắc.

Vật chứng:

- Một viên nén lớn màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A3) có khối lượng 0,1524 gam, là ma túy, loại MDMA và một viên nén nhỏ màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A4) có khối lượng 0,1179 gam, là ma túy, loại MDMA. Sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu niêm phong trong phong bì ghi số vụ 384 ngày 23/7/2021 có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Đức T, Võ Thanh H và Hoàng Anh T.

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ của Huỳnh Đào Xuân T 01 điện thoại di động Iphone màu hồng, số Imel: 359 175 071 912 254 và 700.000đ là tài sản riêng của Thảo không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy;

Vật chứng, tài sản nêu trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự để quản lý theo quy định. Đối với các vật chứng khác được tách riêng để giải quyết trong vụ án: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.

Bản cáo trạng số 118/CT - VKS ngày 25/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố các bị cáo Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Đào Xuân T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

+ Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Huỳnh Đào Xuân T từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy: 0 1 (một) phong bì ghi số vụ 384 ngày 23/7/2021 có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Đức T, Võ Thanh H và Hoàng Anh T.

Đối với 01 (một) điện thoại Iphone màu hồng, số imel: 359 175 071 912 254 và số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) là của bị cáo T do không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả cho bị cáo T.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Đào Xuân T: Không có ý kiến tranh luận về tội danh, điều luật chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân của bị cáo T như hoàn cảnh khó khăn, cha mất sớm, bị cáo vị thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 90, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét áp dụng hình phạt thấp nhất cho bị cáo T.

Đại diện Viện kiểm sát nhất trí với phần ý kiến của người bào chữa, đối với đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự của người bào chữa thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Bị cáo Huỳnh Đào Xuân T nói lời sau cùng: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Huỳnh Đào Xuân T nói lời sau cùng: Bị cáo đã hối lỗi về hành vi mình gây ra mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện XM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định được rằng:

Các bị cáo Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể:

Tối ngày 16/7/2021 Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T được một người không rõ lai lịch cho mỗi người khoản ½ viên thuốc lắc để sử dụng (phần của bị cáo T nhỏ hơn của bị cáo T) nhưng cả hai không sử dụng mà cất vào giỏ xách của bị cáo T. Chiều ngày 17/7/2021 bị cáo T mang theo giỏ xách bên trong có ma túy cùng với bị cáo T đến khách sạn Dimond, địa chỉ: 108 đường 27/4, khu phố Phước An, thị trấn Phước Bửu, huyện XM, tỉnh bà Rịa – Vũng Tàu để cùng sử dụng ma túy và bay lắc với nhiều người thì bị lực lượng chức năng phát hiện.

Kết luận giám định số: 384/KLGĐ - PC09 ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận:

- Một viên nén lớn màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A3) có khối lượng 0,1524 gam, là ma túy, loại MDMA.

- Một viên nén nhỏ màu xám, không rõ hình dạng (mẫu A4) có khối lượng 0,1179 gam, là ma túy, loại MDMA.

Khối lượng 02 nửa viên ma túy mà bị cáo T tàng trữ là 0,2703 gam, loại MDMA. Trong đó 01 nửa viên ma túy của bị cáo T có khối lượng 0,1179 gam, loại MDMA.

Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ đó cho thấy bản cáo trạng số 118/CT – VKS ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố các bị cáo Huỳnh Đào Xuân T, Huỳnh Đào Xuân T về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo T và Thảo nhận thức được tác hại của ma túy và việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bất chấp pháp luật nên các bị cáo vẫn tàng trữ để sử dụng, hành vi của các bị cáo là nguy hại cho xã hội, là một trong những nguyên nhân là phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này các bị cáo T và Th là đồng phạm nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ và phân công vai trò cụ thể nên là đồng phạm giản đơn. Khi được người không rõ lai lịch cho T và Thảo mỗi người ½ viên ma túy, Thảo đã đưa cho T và T đã cất vào giỏ xách, do đó bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự về 02 nửa viên ma túy có khối lượng 0,2703 gam. Áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo nên bị cáo T chịu trách nhiệm hình sự đối với 01 nửa viên ma túy ít hơn có khối lượng 0,1179 gam. Như vậy, bị cáo T phải chịu hình phạt cao hơn so với bị cáo T. Bị cáo Huỳnh Đào Xuân T phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi (16 tuổi 09 tháng 06 ngày), nên khi xem xét quyết định hình phạt cần áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về đường lối xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội đối với bị cáo T.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều là những người không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) phong bì ghi số vụ 384 ngày 23/7/2021 có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Đức Thọ, Võ Thanh Hoài và Hoàng Anh Tuấn là mẫu vật hoàn trả sau giám định, là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại Iphone màu hồng, số imel: 359 175 071 912 254 và số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) của bị cáo T do không liên quan đến hành vi phạm tội nên xét trả lại cho bị cáo T.

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với người không rõ lai lịch đã cho bị cáo T và Thảo ma túy, Cơ quan điều tra chưa làm việc được nên tách riêng để tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là phù hợp.

Đối với Nguyễn Trung H, Lê Trần Hoàng C, Nguyễn Văn A, Nguyễn Công T, Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn L (07 bị can) bị khởi tố về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và Nguyễn Thị Hồng N bị khởi tố về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự, cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Đào Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Đào Xuân T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 25/7/2021.

2. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Đào Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Đào Xuân T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 25/7/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 0 1 (một) phong bì ghi số vụ 384 ngày 23/7/2021 có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Đức Thọ, Võ Thanh Hoài và Hoàng Anh Tuấn.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Đào Xuân T: 01 (một) điện thoại Iphone màu hồng, số imel: 359 175 071 912 254 và số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/11/2021 giữa Công an huyện XM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 buộc các bị cáo Huỳnh Đào Xuân T và Huỳnh Đào Xuân T mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về