TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 14/2022/HS-PT NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Bàn Văn T do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang.
Bị cáo bị kháng nghị:
Bàn Văn T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 05/01/1993 tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn K, xã K, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bàn Văn Q (đã chết) và bà Bàn Thị T; có vợ là Đặng Thị H và có 01 con.
* Tiền án:
- Bản án số 96/2014/HSST ngày 30/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/3/2016).
- Bản án số 52/2017/HSST ngày 15/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2018).
- Bản án số 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, (chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2021).
* Tiền sự: Không;
* Nhân thân:
- Bản án số: 08/2022/HS-ST ngày 09/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù của bản án.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo và 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 25/8/2021, Bàn Văn T đi bộ đến nhà Chu Văn H cùng thôn chơi. Khi gặp nhau T rủ H cùng góp tiền để tìm chất mua ma túy về sử dụng, đồng thời T đưa cho Huy số tiền 60.000 đồng, H đồng ý. Sau đó T đi mượn xe mô tô biển số đăng ký 16H5-3918 của chị Bàn Thị H, sinh năm 1990 (chị gái T trú cùng thôn) rồi điều khiển xe mô tô chở H đi theo hướng ra thôn Đầm Hồng, xã Ngọc Hội, huyện C mục đích tìm mua chất ma túy. Khi đi đến ngã ba đường rẽ đi thôn Phú Đa, xã Phú Bình, huyện C, H nói với T "Mày ở đây đợi tao đi ra lấy", sau đó H một mình điều khiển xe mô tô đi khu vực Mỏ Ăng-ti-mon (thuộc thôn Đầm Hồng 2, xã Ngọc Hội, huyện C) thì gặp một người đàn ông không quen biết nhìn giống người nghiện ma túy đang đứng một mình ở cạnh đường, H đến gần và hỏi mua được 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng nilon màu trắng (là Heroine), với giá 300.000 đồng. Sau đó, H quay lại chỗ T và cả hai cùng nhau đi vào vườn keo cạnh đường, lấy gói ma túy vừa mua được san gạt một ít cùng nhau sử dụng bằng cách đốt hít vào cơ thể, số còn lại H gói lại như cũ cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc mục đích mang về để cùng nhau sử dụng tiếp. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi T và H đi đến thôn Vũ Hải Đường, xã Phú Bình, huyện C thì gặp tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã Phú Bình đang làm nhiệm vụ nghi ngờ T, H có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nên đã yêu cầu cả hai đến Ủy ban nhân dân xã Phú Bình, huyện C để làm việc. Quá trình làm việc Huy đã tự giác giao nộp gói Heroine nêu trên, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời thu giữ cùng toàn bộ vật chứng vụ án.
Tại biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy ngày 25/8/2021, tại Công an huyện C đối với Bàn Văn T, Chu Văn H, đều có kết quả: (+) Dương tính với chất ma túy.
Kết luận giám định số 790/GĐKTHS ngày 30/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,137g (không phẩy một ba bảy gam).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án đã quyết định:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; đoạn 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 47, 58 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo Bàn Văn T.
Tuyên bố bị cáo Bàn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Bàn Văn T 01 (một) năm 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 25/8/2021.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 15/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang với nội dung:
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C theo hướng: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Bàn Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 ngày 15/3/2022.
Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định pháp luật; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.
- Đối với Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị với lý do: Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2014/HSST ngày 30/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo Bàn Văn T 24 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/3/2016), chưa được xóa án tích. Ngày 20/4/2017 bị cáo T thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản 765.000 đồng), Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2017/HSST ngày 15/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt bị cáo 06 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2018), chưa được xóa án tích. Ngày 20/9/2018 bị cáo T thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (0,181gam Heroine), Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 30 tháng tù, về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2021), chưa được xóa án tích.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã nhận định bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do vậy, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo ngày 25/8/2021 phải được xác định là tình tiết tăng nặng định khung theo điểm o “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 “Tái phạm” điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Bàn Văn T 01 năm 07 tháng tù là chưa đúng quy định pháp luật và xác định Bản án số 96/2014/HSST ngày 30/10/2014 và Bản án số 52/2017/HSST ngày 15/9/2017) là nhân thân là không chính xác.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang theo hướng như sau:
Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; đoạn 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 và Điều 56 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bàn Văn T 05 (năm) năm đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 09/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/8/2021.
Bị cáo Bàn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Bàn Văn T không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang; về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến gì về vấn đề này. Do đó, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang là đúng hạn luật định, nên quyết định kháng nghị là hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 ngày 15/3/2022. Bị cáo Bàn Văn T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/8/2021, tại thôn Vũ Hải Đường, xã Phú Bình, huyện C, tỉnh Tuyên Quang, Bàn Văn T và Chu Văn H đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,137g (không phẩy một ba bảy gam), mục đích để sử dụng.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bản thân bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm của ma túy nhưng vẫn cố ý phạm tội, vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
Đối với Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát: Hội đồng xét xử thấy nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 ngày 15/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang với lý do: Bản án hình sự sơ thẩm số 96/2014/HSST ngày 30/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo Bàn Văn T 24 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/3/2016), chưa được xóa án tích. Ngày 20/4/2017 bị cáo T thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản (giá trị tài sản 765.000 đồng), Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2017/HSST ngày 15/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt bị cáo 06 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2018), chưa được xóa án tích. Ngày 20/9/2018 bị cáo T thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (0,181gam Heroine), Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 30 tháng tù, về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2021), chưa được xóa án tích.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã nhận định bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do vậy, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo ngày 25/8/2021 phải được xác định là tình tiết tăng nặng định khung theo điểm o “Tái phạm nguy hiểm” khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 “Tái phạm” điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Bàn Văn T 01 năm 07 tháng tù là chưa đúng quy định pháp luật và xác định Bản án số 96/2014/HSST ngày 30/10/2014 và Bản án số 52/2017/HSST ngày 15/9/2017) là nhân thân là không chính xác.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 ngày 15/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự xử tăng hình phạt đối với bị cáo Bàn Văn T, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[4] Bị cáo Bàn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-P7 ngày 15/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang đối với bị cáo Bàn Văn T như sau:
Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249; đoạn 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 và Điều 56 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Bàn Văn T 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp với hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 09/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 06 (sáu) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/8/2021.
Về án phí: Bị cáo Bàn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (10/5/2022)./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-PT
Số hiệu: | 14/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về