TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 138/2023/HS-ST NGÀY 18/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại phòng xét xử hình sự Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 135/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2023 đối với Bị cáo: Nguyễn Văn H; tên gọi khác: không; giới tính: Nam;
Sinh ngày 18/9/1985, tại xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên cha: Nguyễn Văn R, sinh năm 1962. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị G, sinh năm 1964; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2006 nhập ngũ đến năm 2008 xuất ngũ về địa phương lao động tự do; Bị tạm giữ từ ngày 15/9/2023 đến ngày 21/9/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Người chứng kiến:
- Ông Nguyễn Hữu D, sinh năm 1966.
Nơi cư trú: Thôn X, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình
- Ông Vũ Mạnh H1, sinh năm 1956.
Nơi cư trú: Thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa có mặt bi cáo, vắng mặt người chứng kiến)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 15/9/2023, tại đường thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bị cáo Nguyễn Văn H đang đi bộ một mình, có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu H về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A để kiểm tra. Do hoảng sợ, H đã thả từ trong lòng bàn tay trái xuống đường 01 gói giấy trắng có dòng kẻ. Tổ công tác đã yêu cầu H nhặt gói đó lên, cho vào túi quần bên trái phía trước đang mặc mang về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A để làm việc. Tại đây, trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và ông Vũ Mạnh H1, ông Nguyễn Hữu D, tổ công tác tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước H đang mặc 01 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng, H khai nhận đó là gói Heroine H mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý, niêm phong vật chứng. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H tại thôn B, xã Q, huyện Q, không phát hiện, thu giữ gì.
Quá trình điều tra, truy tố, H khai nhận: H nghiện Heroine từ năm 2020, khoảng 12 giờ ngày 15/9/2023, H đi bộ từ nhà ra đường liên thôn, đi nhờ xe của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không quen biết đến xã A, huyện Quỳnh Phụ mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ, 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng rồi cầm trong lòng bàn tay trái và đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đi đến khu vực thôn A, xã A thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang Bản kết luận giám định số 1404/KL-KTHS ngày 19/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, như sau: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định 57/2022/NĐ- CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; có khối lượng 0,1879 gam (không phẩy một nghìn tám trăm bảy mươi chín gam). Heroine STT: 09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ- CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ” Tại bản Cáo trạng số 139/CT-VKSQP ngày 22/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa:
- Bị cáo H đã khai nhận hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 15/9/2023 như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo H, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 15/9/2023, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí.
- Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản quản lý đồ vật, tài liệu; biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 12 giờ 45 phút, 14 giờ và 14 giờ 10 phút ngày 15/9/2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã A; Biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định lập hồi 15 giờ 45 phút ngày 15/9/2023 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Phiếu xét nghiệm test nhanh Morphin/Heroin ngày 15/9/2023 của Trung tâm y tế huyện Quỳnh Phụ. Cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 15/9/2023, tại đường thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói Heroine có khối lượng 0,1879 gam (không phẩy một nghìn tám trăm bảy mươi chín gam) với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.
Điều 249 Bộ luật Hình sự:Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
........................................................
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
.........................................................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy: Bị cáo đã tàng trữ 01 gói Heroin có khối lượng 0,1879 gam mục đích để sử dụng thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo coi thường pháp luật, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Vì vậy Hội đồng xét xử cần phải lên một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội cũng như việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.
[5] Về quyết định hình phạt: Từ những phân tích nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và bảo đảm mục đích hình phạt nói chung.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân, hiện tại không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc số Heroin bị cáo khai mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại xã A, huyện Quỳnh Phụ nên Cơ quan điều không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói ma túy loại Heroine, xét thấy đây là vật chứng vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 15/9/2023.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định số 1404/KL-KTHS ngày 19/9/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.
“Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ và hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý ”
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hùng phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 138/2023/HS-ST
Số hiệu: | 138/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về