Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 138/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 138/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 137/2022/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2022/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Quàng Văn C – Sinh năm 1995; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản B3, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Quàng Văn T (đã chết) và bà Quàng Thị P (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 23/3/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lò Văn D - Sinh ngày 12/7/2002; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản B3, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn T và bà Cà Thị N; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 16/3/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 20’ ngày 16/3/2022 tổ công tác Công an xã M3, huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực bản A1, xã M3, huyện M phát hiện bắt quả tang Lò Văn D và Quàng Văn C, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi gặp tổ công tác Quàng Văn C là người điều khiển xe đã bỏ lại xe mô tô có kiểm soát nhãn hiệu Winner BKS 26C1- 261.39 để chạy trốn. Thu giữ trong túi quần trước bên phải của Định có 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa 07 viên nén màu hồng (Định khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ niêm phong vật chứng, ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô, 02 điện thoại di động.

Ngày 17/3/2022 tại Công an huyện M, tỉnh Sơn La, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng vật chứng và trích mẫu giám định, kết quả: 07 viên nén màu hồng thu giữ của Định có tổng khối lượng là 0,67gam. Đã trích 02 viên có khối lượng 0,18 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu Đ. Vật chứng còn lại 05 viên có tổng khối lượng 0,49gam ký hiệu L.

Tại bản kết luận giám định số 53/KL-KTTHS ngày 21/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi gám định ký hiệu Đ là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,67 gam; loại Methamphetamine”.

Hồi 04 giờ 25 phút, ngày 23/3/2022, tổ công tác Công an xã C, M đến lán nương của Quàng Văn C mời C về UBND xã C làm việc theo quy định. Quá trình làm việc khi tổ công tác yêu cầu C đã lấy từ trong túi quần bên phải đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng, bên trong có chứa 57 viên nén hình tròn màu hồng giao nộp cho tổ công tác (C khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 23/3/2022 tại Công an huyện M, tỉnh Sơn La, đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh khối lượng vật chứng và trích mẫu giám định, kết quả: 57 viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Quàng Văn C có tổng khối lượng là 5,49 gam. Đã trích 02 viên có tổng khối lượng là 0,18 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu là C. Vật chứng còn lại 55 viên có tổng khối lượng 5,31 gam ký hiệu là L.

Tại bản Kết luận giám định số 534/KL-KTHS ngày 25/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 5,49 gam; loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 16/3/2022, Quàng Văn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Winner BKS 26C1- 261.39 đến nhà D để rủ D đi lấy điện thoại di động của C ở bản C5, xã C, huyện M. Sau khi lấy được điện thoại di động, C rủ D cùng đi mua ma túy về cùng sử dụng, D đồng ý và đưa 200.000đ cho C. C nhận tiền rồi mượn điện thoại của D nói là để gọi điện hẹn mua ma túy, sau đó C gọi điện thoại cho một người đàn ông tên là P4 nhưng không rõ địa chỉ để hỏi mua Hồng phiến, P4 đồng ý và hẹn C giao dịch tại khu vực bản L1, xã K, huyện M. Khi đến khu vực bản L1, C dừng xe mô tô ở ven đường và bảo D ngồi ở xe mô tô đợi để C đi bộ đến nói chuyện và mua được của người tên P4 07 viên Hồng phiến với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, C quay lại đưa cho D gói ma túy, D cầm lấy cất giấu vào trong túi quần đang mặc rồi ngồi sau xe mô tô do C điều khiển để đi xuống xã M3, huyện M. Khi C và D đi đến khu vực bản A1, xã M3, thì gặp tổ công tác Công an xã M3 đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe để kiểm tra, C liền bỏ lại xe mô tô rồi bỏ chạy, còn D bị tổ công tác bắt giữ, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Sau khi bỏ chạy thì C về lán nương của gia đình ở đến khoảng 16 giờ ngày 22/3/2022, C đi bộ đến bản Co Tòng, xã C, huyện M để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi tới bản Co Tòng, C gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không rõ tên, địa chỉ 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 60 viên Hồng phiến với giá 1.200.000đ. Sau khi mua được ma túy C cất giấu mang về lán nương ở Bản B3, xã C, huyện M và bỏ ra 03 viên Hồng phiến sử dụng cho bản thân bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp vào cơ thể. Còn lại 57 viên Hồng phiến C cho vào 01 lọ nhựa màu trắng và cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc. Đến khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 23/3/2022 khi C đang ở tại lán nương thì bị tổ công tác Công an xã C, huyện M đến lán nương phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSSM ngày 20 tháng 6 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Quàng Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, xét xử Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt các bị cáo như sau:

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn C từ 06 năm – 06 năm 06 tháng tù.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 20 - 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh giấy bạc, 01 lọ nhựa, 01 mảnh nilon màu trắng và tổng số 5,8 gam Methamphetamine, tịch thu nộp Ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động.

Tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với nội dung bản cáo trạng truy tố, bị cáo C có đề nghị tự nguyện nộp sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S của bị cáo; khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 21 giờ 15 phút, ngày 16/3/2022 đối với Lò Văn D cùng vật chứng thu giữ là 07 viên nén màu hồng. Kết luận giám định số 53 ngày 21/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “... Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,67 gam loại Methamphetamine”.

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 04 giờ 30 phút, ngày 23/3/2022 đối với Quàng Văn C cùng vật chứng thu giữ là 57 viên nén màu hồng. Kết luận giám định số 534 ngày 25/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “... Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 5,49 gam loại Methamphetamine”.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về việc ngày 16/3/2022 bị cáo C đã rủ bị cáo Định góp tiền cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo Định đã bỏ ra 200.000đ để bị cáo C trực tiếp thỏa thuận và trao đổi với người bán ma túy và mua được 07 viên hồng phiến, sau khi mua được đang cùng nhau trên đường vận chuyển trở về để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, quá trình bị bắt giữ bị cáo C đã bỏ chạy thoát, bị cáo Định bị lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng.

- Lời khai nhận tội của bị cáo C về việc sau khi chạy thoát vào ngày 16/3/2022 bị cáo đã đến sống tại lán nương của gia đình, đến ngày 22/3/2022 bị cáo đã một mình đến bản Co Tòng, xã C, huyện M và mua được 60 viên hồng phiến của một người đàn ông không quen biết với giá 1.200.000đ. Sau khi mua được ma túy bị cáo đã trích ra 03 viên sử dụng hết, còn lại 57 viên được bị cáo cất giấu để sử dụng dần thì đến ngày 23/3/2022 bị tổ công tác Công an xã C, huyện M làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Quàng Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/3/2022 bị cáo Quàng Văn C, Lò Văn D đã có hành vi cùng nhau tàng trữ 0,67 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng; Sau đó đến ngày 23/3/2022 bị cáo Quàng Văn C đã một mình có hành vi tàng trữ 5,49 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang nên hành vi của bị cáo Lò Văn D thuộc trường hợp được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”; hành vi của bị cáo Quàng Văn C thuộc trường hợp được quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “05 năm đến 10 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Bị cáo Định là đồng phạm giúp sức tích cực với bị cáo C trong hành vi góp số tiền 200.000đ vào ngày 16/3/2022 cùng bị cáo C đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng, đối với hành vi được thực hiện trong ngày 16/3/2022 bị cáo C là người khởi xướng việc đi mua ma túy về sử dụng và là người trực tiếp thỏa thuận trao đổi giá cả mua bán nên giữ vai trò chính. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 23/3/2022 của bị cáo C do bị cáo một mình thực hiện, phạm tội độc lập và không có đồng phạm khác.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn D thuộc trường hợp nghiêm trọng, với khung hình phạt bị truy tố có mức phạt tù từ “01 đến 05 năm”, hành vi phạm tội của bị cáo Quàng Văn C thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, với khung hình phạt bị truy tố có mức phạt tù từ “05 đến 10 năm”.

Các bị cáo đều nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lò Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Quàng Văn C đã thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 16/3/2022 với khối lượng là 0,67 gam Methamphetamine và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thực hiện vào ngày 23/3/2022 với khối lượng là 5,49 gam Methamphetamine nên có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khối lượng ma tuý, vai trò của từng bị cáo trong vụ án để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo đều không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với 02 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh giấy bạc, 01 lọ nhựa, 01 mảnh nilon màu trắng và tổng số 5,8 gam Methamphetamine là các vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA là tài sản cá nhân của bị cáo Định sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s là tài sản cá nhân của bị cáo C, bị cáo tự nguyện nộp để sung ngân sách Nhà nước, xét đề nghị này của bị cáo là tự nguyện và không vi phạm điều cấm của Luật do vậy HĐXX chấp nhận.

[7] Các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về những người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Quàng Văn C 16/3/2022 và ngày 22/3/2022 bị cáo đều không rõ lai lịch và địa chỉ của hai người đàn ông này và không nhận dạng xác định được đối tượng cụ thể nên Cơ quan CSĐT Công an huyện không có căn cứ để mở rộng điều tra làm rõ là có căn cứ.

Đối với chiếc xe mô tô mô tô nhãn hiệu Winner BKS 26C1- 261.39 xác định được là tài sản hợp pháp của anh Quàng Văn Le (anh trai của C) cho C mượn, khi C sử dụng xe đi mua ma túy anh Le không biết nên ngày 18/5/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã trả lại chiếc xe cho anh Le là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Các bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn C 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2022.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn D 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2022.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 5,31 gam Methamphetamine được đựng trong 01 lọ nhựa màu trắng. Tất cả được đựng trong 01 phong bì được niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Trên giấy niêm phong ở mặt sau phong bì có mã số 081799.

- 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy bạc, 0,49 gam Methamphetamine được đựng trong 01 mảnh nilon màu trắng. Tất cả được đựng trong 01 phong bì được niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Trên giấy niêm phong ở mặt sau phong bì có mã số 081704.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s, màu vàng hồng; 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu NOKIA 1280 màu đen.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 63/QĐ – VKS ngày 20/6/2022 của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/6/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/7/2022)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 138/2022/HS-ST

Số hiệu:138/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về