Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 138/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 138/2021/HS-ST NGÀY 26/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2021 Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 141/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Hoàng Minh T, sinh ngày 28/02/1970, tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã H, huyện T, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Khu hành chính, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Minh Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị Q; vợ: Nguyễn Thị N; con: 02 con; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2021 cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng:

- Ông Trần Văn T, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn V, xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/6/2021, Tổ công tác của Công an xã Đ, thành phố V làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực chợ tạm thuộc thôn V, xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện Hoàng Minh T đang thuê trọ tại: Khu hành chính , phường L, thành phố V có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra và thu giữ tại túi áo ngực phía trước bên phải T đang mặc 01 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất cục bột màu trắng, tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu A1 (T tự khai nhận là gói ma túy Heroin T vừa mua để sử dụng). Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc, đưa T về trụ sở làm việc và bàn giao hồ sơ cùng đối tượng T cho Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an thành phố Vĩnh Yên để giải quyết.

Tại Kết luận giám định số 1480/KLGĐ ngày 03/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

“Chất cục bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1646g (không phảy một sáu bốn sáu gam, không kể bao bì) loại Heroin.

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1 = 0,1332 gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong kín trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.

Về nguồn gốc gói ma túy Heroin thu giữ của Hoàng Minh T, quá trình điều tra T khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 30/6/2021, T đang ở nhà trọ thì nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân nên T đi bộ đến địa phận xã Đ, thành phố V để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực chợ tạm thuộc Thôn V, xã Đ, T gặp 01 nam giới khoảng 40 tuổi đang đứng ở vỉa hè lối đi vào chợ, thấy vậy T đến hỏi và mua được của người nam giới này 01 gói ma túy (Heroin) với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, T cất gói ma túy vào túi áo ngực phía trước bên phải của T rồi đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi vừa đi được một đoạn thì T bị Tổ công tác của Công an xã Đ, thành phố V kiểm tra hành chính, phát hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” như nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 145/CT-VKSND VY ngày 08/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Hoàng Minh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa, bị cáo Hoàng Minh T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người làm chứng tại phiên tòa vắng mặt nhưng quá trình điều tra khai nhận như nội dung Bản cáo trạng đã nêu trên (bút lục 53 - 57).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Hoàng Minh T từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 30/6/2021). Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ 0,1332 gam mẫu và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định.

Bị cáo Hoàng Minh T không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Minh T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu, chứng cứ được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/6/2021, tại khu vực chợ tạm thuộc thôn V, xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Hoàng Minh T có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy qua giám định là Heroin có khối lượng 0,1646 gam để sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân thì bị Tổ công tác của Công an xã Đ, thành phố V kiểm tra, phát hiện và thu giữ cùng vật chứng có liên quan.

Hành vi của Hoàng Minh T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe của con người, làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 5 năm nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Bị cáo T không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Đối với người có liên quan trong vụ án: Người nam giới đã bán ma túy cho Hoàng Minh T, quá trình điều tra T khai nhận qua bạn bè xã hội nói chuyện nên T biết ở khu vực chợ tạm thuộc thôn V, xã Đ, thành phố V có người nam giới bán ma túy. Ngày 30/6/2021, T đến tìm và hỏi mua 01 gói ma túy (Heroin) của người nam giới này, tuy nhiên T không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của người này. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an xã Đ, thành phố V để xác định đối tượng bán ma túy tại khu vực chợ tạm thuộc thôn V, xã Đ, nhưng chưa xác định được đối tượng bán ma túy. Ngoài lời khai của T thì không có tài liệu nào xác định nhân thân, lai lịch người đã bán ma túy cho T. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,1332 gam mẫu và toàn bộ bao gói được hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 100.000đ Hoàng Minh T dùng mua ma túy, quá trình điều tra xác định là tiền của T làm ăn mà có. Cơ quan điều tra không thu giữ được số tiền này nên không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái pháp chất ma túy” Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Hoàng Minh T 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 30/6/2021).

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,1332 gam mẫu và toàn bộ bao gói được hoàn lại sau giám định (đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/10/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 138/2021/HS-ST

Số hiệu:138/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về