Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 137/2023/HS-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2023/TLST-HS, ngày 12 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2023/QĐXXST HS, ngày 14 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN VĂN A, Giới tính: nam;

Tên gọi khác: không; S ngày: 26/11/1994, tại tỉnh Bình Thuận;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố 7, phường B, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không;

Trình độ học vấn: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1968 Con bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1966 Anh chị em ruột: Có ba người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

+ Ngày 28/7/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 117/2015/HSST). Ngày 17/01/2016 chấp hành xong hình phạt. Hiện đã được xóa án tích.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 07/4/2022, Nguyễn Văn A đang ở nhà tại khu phố 7, phường B, thành phố P thì có Cu T đến. Sau khi nói chuyện được một lúc, Cu T lấy ra một ít ma túy đá để Cu T và A cùng sử dụng. Sau đó, Cu T lấy ra 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa kéo, kích thước khoảng (04 x 07) cm, bên trong chứa ma túy đá, A thấy vậy bảo Cu T bán gói ma túy lại cho mình để dành sử dụng, Cu T đồng ý. A lấy 650.000 đồng đưa cho Cu T. Cu T cầm tiền và đưa gói ma túy trên cho A rồi đi về. A cất số ma túy vừa mua được vào trong ví da để trong túi quần phía sau, bên phải đang mặc rồi đi ngủ. Đến sáng cùng ngày, Nguyễn Văn S (sinh năm: 1992, là anh trai của A), Huỳnh Thạch L (sinh năm: 1991), Lê Công Th (sinh năm: 1992) đều trú tại: khu phố 7, phường B), Lê Quang H (sinh năm: 1984), Nguyễn Thành T (sinh năm: 1994) đều trú tại: khu phố 6, phường B) và Hồ Duy H (sinh năm:

1993, trú tại: khu phố 4, phường B) đến nhà A chơi. Đến khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, khi A đang ngồi trong nhà cùng các đối tượng trên thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường B kiểm tra, bắt quả tang A đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nên đã tiến hành lập biên bản, thu giữ tang vật gồm 01 gói ma túy trong người A và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá do A tự chế rồi đưa A về trụ sở Công an để làm việc. Tại Cơ quan công an, A khai nhận A bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa kéo, kích thước khoảng (04x07) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, được thu giữ trong ví da để trong túi quần phía sau, bên phải của A. (ký hiệu là M khi giám định);

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 (một) chai nhựa, 01 (một) ống hút nước giải khát và 01 (một) ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu.

Tại Bản kết luận giám định số 390/KL-KTHS ngày 21/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 1,6583 gam, là Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 1,6207 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 390, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Xử lý vật chứng: hiện 1,6207 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1387, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 (một) chai nhựa, 01 (một) ống hút nước giải khát và 01 (một) ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan thiết để bảo quản chờ xử lý.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 91/CT/VKSPT-HS ngày 01/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 15 tháng đến 21 tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: - 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 390, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 (một) chai nhựa, 01 (một) ống hút nước giải khát và 01 (một) ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu;

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, A diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau;

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tổ tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về căn cứ buộc tội bị cáo: tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” do Nguyễn Thanh A thực hiện. Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 07/4/2022, tại nhà của Nguyễn Văn A khu phố 7, phường B, thành phố P, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an phường B bắt quả tang A có hành vi tàng trữ trái phép trái phép 1,6583 gam chất ma túy là Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Vì vậy Cáo trạng số 91/CT/VKSPT-HS ngày 01/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được Methamphetamine (Ma túy đá) là loại chất gây nghiện nằm trong danh mục Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo là con nghiện, khi đến cơn bị cáo có nhu cầu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại. Bị cáo đã tàng trữ một số lượng ma túy là 1,6583 gam Methamphetamin và bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là cố ý, đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng nhân thân xấu.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi quyết định hình phạt sẽ xem xét cho bị cáo, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[5]. Đối với Nguyễn Văn S, Huỳnh Thạch L, Lê Quang H, Lê Công Th, Nguyễn Thành T và Hồ Duy H có mặt tại nhà của A vào thời điểm A bị bắt quả tang nhưng quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của A nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

Đối với đối tượng tên Cu T đã bán ma túy cho A, do không rõ nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P: về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: 1,6207 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 390, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 (một) chai nhựa, 01 (một) ống hút nước giải khát và 01 (một) ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu.

[8]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn A 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

[2]. Biện pháp tư pháp: Căn cứ các điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 390, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 (một) chai nhựa, 01 (một) ống hút nước giải khát và 01 (một) ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu;

(Tất cả tang vật chứng đều như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 138, ngày: 10/7/2023 giữa Công an thành phố P và Chi cục Th hành án Dân sự thành phố P).

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/7/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2023/HS-ST

Số hiệu:137/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về