TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 137/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 137/2021/TLST- HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST- HS ngày 16/11/2021, đối với bị cáo:
Vi H; sinh ngày 13/12/1994 tại thành phố Tuyên Quang
Nơi cư trú: Tổ dân phố 14, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Dân tộc: Cao Lan; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Con ông Vi T và bà Vũ H1; vợ con: Chưa có.
Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:
- Ngày 13/3/2013, Công an thành phố Tuyên Quang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1270 về hành vi Cố ý gây thương tích bằng hình thức phạt tiền;
- Ngày 11/9/2013, Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý, Công an tỉnh Tuyên Quang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 149 về hành vi Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức bằng hình thức phạt tiền;
- Ngày 10/02/2015, Công an thành phố Tuyên Quang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 26 về hành vi Mua số lô, số đề trái phép bằng hình thức phạt tiền;
- Ngày 31/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 04 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 131/2015/HSST);
- Ngày 15/7/2016, Công an phường T, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 40 về hành vi Đánh nhau bằng hình thức phạt tiền;
- Ngày 27/12/2017, Công an phường T, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 232 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý bằng hình thức phạt tiền;
- Ngày 28/5/2020, Công an thành phố Tuyên Quang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1115 về hành vi Gây mất trật tự khu dân cư bằng hình thức phạt tiền; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 10/8/2021, Vi H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22H6- 6505 (xe H mượn của bố đẻ là ông Vi T) đi từ nhà đến khu vực vòng xuyến km5 đường Tuyên Quang đi Hà Nội (thuộc xã L, thành phố T) với mục đích tìm mua ma tuý về sử dụng cho bản thân. Đến khu vực vòng xuyến, H gặp và mua được 01 gói ma tuý, bên ngoài gói bằng nilon màu trắng, bên trong có các tinh thể màu trắng, theo H khai đó là ma tuý loại Methamphetamine với số tiền 300.000 đồng của một người đàn ông tên là T2 (H không biết họ, tên đệm, địa chỉ của người này). Sau khi mua được ma tuý, H cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về đến khu vực tổ dân phố 2, phường H, thành phố T thì bị tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về ma tuý, Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện. Do hoảng sợ, H đã thả gói ma tuý xuống đất, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói ma tuý vào hồi 22 giờ 30 phút cùng ngày.
Tại Kết luận giám định số 744/KLGĐHS ngày 14/8/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định (gói tinh thể màu trắng thu giữ của Vi H) là chất ma tuý, loại Methamphetamine; khối lượng 0,173g (không phẩy một bảy ba gam).
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý đối với Vi H, kết quả (+) dương tính, (trong cơ thể H có chất ma tuý). Theo H khai: Ngày 07/8/20021, H mua được 01 gói ma túy của một người không quen biết và đã sử dụng hết gói ma túy tại khu vực phường T, thành phố T.
Tại bản Cáo trạng số 138/CT-VKSTP ngày 10 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Vi H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà, đại diện VKSND thành phố Tuyên Quang trình bày luận tội đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Vi H từ 01 năm 02 tháng tù đến 01 năm 05 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/8/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại. (Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 18/11/2021).
Áp dụng: Điều 136; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa, nhất trí với luận tội của đại diện VKSND thành phố Tuyên Quang. Bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện nhiệm vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Bị cáo không khiếu nại, thắc mắc gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo khai vào khoảng 22 giờ ngày 10/8/2021 một mình bị cáo đi đến khu vực vòng xuyến khu vực km5 đường Tuyên Quang đi Hà Nội mua 01 gói ma tuý loại Methamphetamine với số tiền 300.000 đồng với mục đích để sử dụng cho bản thân, trên đường về thì bị phát hiện bắt giữ. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo khẳng định bản cáo trạng đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan; kết luận giám định là khách quan, chính xác. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Vi H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.
- Về hình phạt: Xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính và đã bị xét xử nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn cố ý tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến việc quản lý độc quyền về chất ma tuý của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương nên cần áp dụng hình phạt tù như mức án mà đại diện VKSND đề nghị là phù hợp để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định bị cáo không có tài sản gì và không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Trong vụ án này còn có người đàn ông theo bị cáo khai tên là Thắng là người bán ma tuý cho bị cáo nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.
Đối với ông Vi T là người cho bị cáo mượn xe mô tô nhưng không biết việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy nên không xem xét, xử lý.
Bị cáo còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 07/8/2021, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền. HĐXX thấy như vậy là phù hợp.
[5] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.
Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 18/11/2021.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo:
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Vi H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Xử phạt: Bị cáo Vi H 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 11/8/2021.
2. Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại (Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 18/11/2021).
3. Căn cứ: Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo Vi H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2021/HS-ST
Số hiệu: | 137/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về