Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 136/2022/HS-ST NGÀY 26/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2022/HSST ngày 29 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2022/QĐXXST – HS ngày 12/8/2022 đối với bị cáo:

Lê Quang A, Giới tính: Nam, Sinh năm: 1993 - tại tỉnh B. HKTT: thôn B, xã C, thành phố P, tỉnh B. Nơi ở hiện tại: khu phố 7, phường D, thành phố P, tỉnh B; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Quang E, sinh năm: 1950 (đã chết); Con bà: Lê Thị Ngọc F, sinh năm: 1958; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 30/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 26/7/2021, Lê Quang A sử dụng ứng dụng Zalo trên điện thoại của A liên hệ với một người tên G (chưa rõ nhân thân) có tên trên ứng dụng Zalo là “S” để hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy đá, S đồng ý và hẹn gặp ở khu vực trường lái Quyết H thuộc khu phố 8, phường D, thành phố P. Khoảng 30 phút sau, A đi tới điểm hẹn thì gặp S điều khiển xe mô tô (chưa rõ biển số) đến. Tại đây, S đưa cho A 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa kéo, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, Sáu nhận 2.000.000 đồng từ A, rồi bỏ đi. A mang gói ma túy về bỏ vào vỏ gói thuốc lá hiệu Cotab rồi cất giấu ở gần tủ quần áo trong phòng ngủ của A. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, A lấy 01 ít ma túy trong gói ma túy đã mua ra sử dụng, sau đó cất lại vào chỗ cũ. Đến khoảng 08 giờ ngày 27/7/2021, lực lượng Công an vào nhà kiểm tra hành chính, sợ bị phát hiện nên A đã lấy gói ma túy từ trong vỏ bao thuốc lá hiệu Cotab ra cất giấu dưới tấm nệm trong phòng ngủ của A, còn vỏ bao thuốc lá hiệu Cotab, A để ở trên tấm nệm thì lực lượng Công an phát hiện lập biên bản thu giữ tang vật và đưa A về trụ sở làm việc.

Tại đây, A thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa kéo, kích thước khoảng (6x9,5)cm, bên trong có chứa nhiều tinh thể màu trắng, được thu giữ dưới nệm phòng ngủ của A, (ký hiệu M khi giám định);

- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Cotab thu giữ trên nệm tại phòng ngủ của A;

Đối với 01 điện thoại di động của A sử dụng để gọi “S” mua ma túy, A cho Lê Quang H (sinh năm 1982, trú tại thôn B, xã C, thành phố P, là anh của A) sử dụng, khi sử dụng, do điện thoại bị hư nên H đã bỏ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại Kết luận giám định số 1062/KLGĐ-PC09, ngày 01/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 4,0763 gam là Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 3,8392 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1062, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận.

Tiếp đến, vào khoảng 20 giờ ngày 26/3/2022, Lê Quang A đi bộ đến hẻm gần trường Tiểu học D thuộc khu phố 8, phường D, thành phố P để tìm mua ma túy. Tại đây, A gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân) hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, người này đồng ý và bảo A đứng chờ. Một lúc sau, có 01 người thanh niên khác tên Lưu (không rõ nhân thân) đi đến đưa cho A 01 gói ma túy rồi nhận 500.000 đồng từ A. Sau khi mua được ma túy, A điều khiển xe mô tô (không biển số) lưu thông trên đường Nguyễn Thông thuộc khu phố 5, phường Phú Hài, thành phố P hướng ra Mũi Né thì bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra hành chính phát hiện trong túi quần Jean nhỏ phía trước bên phải của A có 01 gói ma túy nên đã lập biên bản, thu giữ tang vật và đưa A về trụ sở làm việc. Tại đây, A thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói nylon không màu, hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, kích thước (2x3)cm, thu giữ trong túi quần Jean nhỏ phía trước bên phải của A (ký hiệu M khi giám định);

- 01 chiếc xe mô tô không biển số, số khung: MH1KB1119LK276129, số máy: KB11E1275804.

Tại Kết luận giám định số 405/KLGĐ-PC09, ngày 26/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,5479 gam là Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,5211 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 405, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận.

Xử lý vật chứng:

+ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Cotab; 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 3,8392 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1062 và 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,5211 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 405. Viện kiểm sát nhân dân thành phố P ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố P bảo quản, chờ xử lý.

+ Chiếc xe mô tô không biển số, số khung: MH1KB1119LK276129, số máy: KB11E1275804 đã thu giữ khi lập biên bản sự việc, được xác định là tài sản của Lê Thị Ngọc Yến (sinh năm 1958, trú tại thôn B, xã C, thành phố P, là mẹ ruột của A). Yến không biết A sử dụng xe mô tô trên đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Yến.

Tại bản cáo trạng số 102/CT – VKS ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Lê Quang A về tội “Tàng trữ trái phép chất chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 02 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 02 Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Quang A mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

Biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì niêm phong số 1062/KLGĐ –PC 09 ngày 01/9/2021 và 01 phong bì niêm phong số 405/KLGĐ – PC09 ngày 26/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N, Nguyễn Hồng T và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, 01 hộp vỏ bao thuốc lá Cotab là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Bị cáo thấy được hành vi bị cáo là sai trái ăn năn hối cải mong Hội đồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết quả giám định kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh Bình Thuận về vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập theo quy định của pháp luật có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 08 giờ ngày 27/7/2021, tại phòng ngủ của của nhà bị cáo Lê Quang A thuộc khu phố 7, phường D, thành phố P. Bị cáo A đã có hành vi cất giấu trái phép 4,0763 gam Methamphetamine và khoảng 21 giờ 40 phút ngày 26/3/2022, tại khu phố 5, phường Phú Hài, thành phố P. bị cáo Lê Quang A tiếp tục cất giấu trái phép 0,5479 gam Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Xét thấy, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 02 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho thấy: bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine là loại ma túy gây nghiện, nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ…chất ma túy trái phép. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội thế nhưng bị cáo xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cao cho xã hội nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới.

[3] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình sự cho bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, xem xét nhân thân bị cáo, xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[5]Về xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định là 01 phong bì niêm phong số 1062/KLGĐ –PC 09 ngày 01/9/2021 và 01 phong bì niêm phong số 405/KLGĐ –PC09 ngày 26/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N, Nguyễn Hồng T và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, 01 hộp vỏ bao thuốc lá Cotab vật chứng thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng, do vậy cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 đối tượng tên G (“S”), Lưu đã bán ma túy cho bị cáo A, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý là đúng theo quy định pháp luật.

[6]Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 02 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: Điểm b khoản 02 Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo Lê Quang A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

*Xử phạt: Bị cáo Lê Quang A 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 30/5/2022.

*Biện pháp tư pháp:

+Áp dụng: điểm c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 01 bì niêm phong số 1062/KLGĐ –PC 09 ngày 01/9/2021 và 01 phong bì niêm phong số 405/KLGĐ – PC09 ngày 26/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N, Nguyễn Hồng T và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, 01 hộp vỏ bao thuốc lá Cotab vật chứng thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 113 ngày 02/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P.)

*Về án phí: aùp duïng khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Bị cáo Lê Quang A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( 26/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 136/2022/HS-ST

Số hiệu:136/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về