TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 134/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 9 năm 2023 Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:
Vũ Văn S, sinh ngày 07/11/1997, tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn C T, xã B Đ, huyện Y L, tỉnh V P; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T và bà Nguyễn Thị M; vợ: Lê Thị Ánh D; con: 01 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
Người chứng kiến:
- Anh Phùng Quang K, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường H H, thành phố V Y, tỉnh V P (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 40 phút ngày 30/5/2023, tổ công tác Công an phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Mạc Đĩnh Chi thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên phát hiện 01 nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính, đối tượng tự khai tên Vũ Văn S, quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện thu giữ tại túi áo bên trái phía trước S đang mặc có 01 (một) túi nilon nhỏ mở kiểm tra bên trong có 02 viên nén màu hồng, trên mặt mỗi viên nén đều có in chìm ký tự “WY” và các hạt tinh thể dạng đá màu trắng. S tự khai nhận 02 viên nén là ma túy ngựa và các tinh thể dạng đá là ma túy đá của S cất giấu để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính, phát hiện. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong 01 (một) túi nilon nhỏ bên trong có 02 viên nén màu hồng và các hạt tinh thể dạng đá màu trắng thu giữ của S nêu trên vào một phong bì thư theo đúng quy định pháp luật, ký hiệu Al. Ngoài ra không tạm giữ gì khác của S. Tổ công tác lập biên bản sự việc và đưa S cùng vật chứng về trụ sở tiếp tục làm việc. Sau đó, Công an phường Hội Hợp chuyển toàn bộ hồ sơ, đối tượng đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Ngày 30/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số: 368 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định chất ma túy có trong mẫu ký hiệu A1;
Tại Kết luận giám định số 1547/KL - KTHS, ngày 03/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:
1. 02 (Hai) viên nén màu hồng có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,1910g (Không phẩy một chín một không gam, không kể bao bì), loại Methamphetamine.
2. Tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2376g (Không phảy hai ba bảy sáu gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.
Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1= 0,1508 gam mẫu viên nén + 0,2060 gam mẫu tinh thể và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ 1457”, Về nguồn gốc gói ma túy Heroin thu giữ của Vũ Văn S, quá trình điều tra S khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 30/5/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên S đi bộ đến khu vực Ngã Tư Quán Tiên thuộc địa phận phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên để tìm mua ma túy. S mua của một người nam giới không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ, người này khoảng 30 tuổi, cao khoảng 165 cm 01 gói ma túy “đá” loại Methamphetamine và 02 viên ma tuý “ngựa” loại Methamphetamine với giá 500.000đ. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra tiến hành xác minh tại Công an phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên như lời khai của S nhưng chưa xác định được người nam giới này là ai. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau Tại Cáo trạng số 114/CT-VKSTPVY ngày 29/8/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố vũ Văn S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng.
Người chứng kiến tại phiên tòa vắng mặt nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp như Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 64 – 67).
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Vũ Văn S từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: A1= 0,1508 gam mẫu viên nén + 0,2060 gam mẫu tinh thể và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ 1457”.
Bị cáo S không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo S tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người chứng kiến về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra , cùng các tang vât đa thu giư, cac tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 30/5/2023, tại khu vực đường Mạc Đĩnh Chi thuộc tổ dân phố Quán Tiên, phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên, Tổ công tác Công an phường Hội Hợp làm nhiệm vụ trên địa bàn thì phát hiện Vũ Văn S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân. Thu giữ của S 01 túi nilon bên trong có chứa các tinh thể dạng đá, màu trắng và 02 viên nén hình tròn màu hồng, qua giám định là ma túy có tổng khối lượng 0,4286g, loại Methamphetamine.
Hành vi nêu trên của Vũ Văn S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Nội dung điều luật quy định:
“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, làm tác hại cho chính bản thân của bị cáo cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Xet tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, cac tinh tiết tăng nặng, giam nhe trach nhiêm hinh sư và nhân thân cua người phạm tội, Hôi đồng xet xư nhân thấy:
Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 5 năm nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.
Bị cáo S là người có nhân thân tốt, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.
[4] Đối với người có liên quan:
Đối với người bán ma túy cho S, quá trình điều tra, S khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 30/5/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên S đi bộ đến khu vực Ngã Tư Quán Tiên thuộc địa phận phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên để tìm và mua ma túy của một người nam giới không biết tên, địa chỉ, người này khoảng 30 tuổi, cao khoảng 165 cm, S mua 01 gói ma túy “đá” loại Methamphetamine và 02 viên ma tuý “ngựa” loại Methamphetamine với giá 500.000đ. Cơ quan điều tra đã xác minh tại Công an phường Hội Hợp về người nam giới có đặc điểm nêu trên nhưng chưa xác định được người này là ai. Ngoài lời khai của S không có tài liệu nào để xác định được nhân thân, lai lịch của người bán ma túy nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo S không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với Mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: A1= 0,1508 gam mẫu viên nén + 0,2060 gam mẫu tinh thể và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ 1457” không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về Điều luật và hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Vũ Văn S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án 3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy Mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: A1= 0,1508 gam mẫu viên nén + 0,2060 gam mẫu tinh thể và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ 1457” (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/9/2023).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 134/2023/HS-ST
Số hiệu: | 134/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về