Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 132/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 132/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 04 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 161/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Hoàng Minh N; Sinh năm 1984. Tại G, Kiên Giang; Nơi đăng ký thường trú: Tổ 25 khu phố C, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Những nơi đã cư trú: Phòng số 7 nhà nghỉ “Thúy Vy” số 43 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Minh C1 và bà Nguyễn Ngọc N1; Anh chị em ruột có 01 người, sinh năm 1979; Vợ: Nguyễn Thị Việt A; Con: Có 02 người, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2014; Tiền sự: Không.

Tiền án: Năm 2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 năm tù về tội “Cướp tài sản và Trộm cắp tài sản”, ngày 06/01/2010 chấp hành xong hình phạt, chưa xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ ngày: 31/5/2021 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

1 - Người chứng kiến:

+ Nguyễn Hoàng N2, sinh năm 1960 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 27/18 đường Q, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

+ Phạm Xuân B1, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 43 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hoàng Minh N bắt đầu sử dụng ma túy (loại ma túy đá) từ đầu năm 2019. Nguồn ma túy bị cáo có được là do nhờ bạn tên Bé T1 và Tuấn H1 (chưa xác định được nhân thân, địa chỉ) mua giúp của nhiều người, trong đó có mua ma túy của người tên T2 Đầu Dài (chưa xác định được nhân thân, địa chỉ) ở khu vực chợ Rạch Sỏi. Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 30/5/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên bị cáo điện thoại cho Bé T1 nhờ gọi điện cho T2 Đầu Dài hỏi mua ma túy loại heroin giá 1.000.000 đồng và loại hàng đá giá 500.000 đồng. Sau khi liên hệ thì T2 đồng ý và hẹn N đến khu vực Rạch Sỏi để nhận ma túy. Khi đến nơi, T2 đưa cho N 02 bịch ma túy. Sau khi có ma túy N đem về Phòng số 7 nhà nghỉ “Thúy Vy” số 43 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang và lấy mỗi loại ra sử dụng 01 ít, số còn lại thì cất giấu 02 bên túi quần đang mặc trên người của bị cáo để sử dụng dần. Đến khoảng 19 giờ 05 phút ngày 31/5/2021, bị cáo bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố G kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng. Tại Cơ quan điều tra bị cáo khai nhận mục đích tàng trữ ma túy là để sự dụng cá nhân, không có mục đích nào khác. Đến ngày 09/6/2021, bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố.

Bị cáo Hoàng Minh N đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Hoàng Minh N đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Vật chứng của vụ án: 01 (Một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh bên trong có chứa chất màu trắng; 01 (Một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu xanh bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể không đồng nhất; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Huawei số Imei: 869572034100873, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận giám định số 596/KL-KTHS ngày 07 tháng 6 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang xác định (bút lục số 18):

- Gói 1: Chất màu trắng chứa trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 2,4096 gam.

- Gói 2: Chất rắn màu trắng, dạng tinh thể không đồng nhất chứa trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8031 gam (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II STT 323, Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 09; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang nêu trên.

* Theo bản cáo trạng số: 182/CT.VKSRG ngày 24/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Hoàng Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Hoàng Minh N mức án từ 24 (Hai mươi bốn) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng tù.

- Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) phong bì có ký hiệu số 596/2021/gói 1 và 596/2021/gói 2 ngày 08/6/2021 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N và người chứng kiến Trương Xuân Đỡ có dấu mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Huawei số Imei: 869572034100873 (Theo quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS ngày 24/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang) Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Hoàng Minh N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hoàng Minh N bắt đầu sử dụng ma túy (loại ma túy đá) từ đầu năm 2019. Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 30/5/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên bị cáo điện thoại cho Bé T1 nhờ gọi điện cho T2 Đầu Dài hỏi mua ma túy loại Heroine giá 1.000.000 đồng và loại hàng đá giá 500.000 đồng. Sau khi liên hệ thì T2 đồng ý và hẹn N đến khu vực Rạch Sỏi để giao nhận ma túy. Sau khi có ma túy N đem về Phòng số 7 nhà nghỉ “Thúy Vy” số 43 đường K, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang và lấy mỗi loại ra sử dụng 01 ít, số còn lại thì cất giấu 02 bên túi quần N đang mặc để sử dụng dần. Đến khoảng 19 giờ 05 phút ngày 31/5/2021, bị cáo bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố G kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng (Qua giám định loại Heroine có khối lượng mẫu gửi giám định là 2,4096 gam; loại Methamphetamine có khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8031 gam). Mục đích bị cáo mua ma túy là để sử dụng, không có bán lại hoặc sử dụng vào mục đích khác.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Hoàng Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội là thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo xảy ra rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện tội phạm có ý thức và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do xuất phát từ việc nghiện ma túy và muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo đã bất chấp lao vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự quản lý các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến sự ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương và là điều kiện để làm phát sinh tội phạm khác. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 (Hai) phong bì có ký hiệu số 596/2021/gói 1 và 596/2021/gói 2 ngày 08/6/2021 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N và người chứng kiến Trương Xuân Đ có dấu mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang. Đây là số ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01(Một) điện thoại di động hiệu Huawei, do sử dụng phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.

[7] Theo bản luận tội mà Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Đối với người tên Tuấn đầu dài bán ma túy cho bị cáo và tên Bé T1, T2 H mua ma túy dùm bị cáo; hiện chưa xác định được tên thật, địa chỉ nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang tiếp tục điều tra, làm rõ khi nào đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Hoàng Minh N mức án 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 31/5/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 (Hai) phong bì có ký hiệu số 596/2021/gói 1 và 596/2021/gói 2 ngày 08/6/2021 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Nam và người chứng kiến Trương Xuân Đỡ có dấu mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang;

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Huawei số Imei: 869572034100873 (Theo quyết định chuyển vật chứng số 128/QĐ-VKS ngày 24/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang)

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ uật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 04/11/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 132/2021/HS-ST

Số hiệu:132/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về