Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2024/TLST-HS ngày 01/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HS ngày 05/3/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Văn Nh, sinh năm 2004 tại xã M, huyện M, tỉnh T. Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh T; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 05/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn H, sinh năm 1983 và bà Lương Thị H, sinh năm 1983; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 08/11/2023, chuyển tạm giam từ ngày 10/11/2023 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh T, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K – Trợ giúp viên pháp lý Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 1 – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Vi Văn H, sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh T, có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Hà Văn H, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: Bản N, xã P, huyện M, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 00 giờ 30 phút, ngày 08/11/2023, tố công tác Đồn Biên phòng Pù Nhi chủ trì, phối hợp với Công an xã N tổ chức tuần tra, kiểm soát tại khu vực bản K, xã N, huyện M thì phát hiện Vi Văn Nh có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Khi dừng xe Nh đã thả từ tay xuống đường 01 gói nilon màu trắng, tổ công tác đã yêu cầu Vi Văn Nh nhặt gói nilon kiểm tra phát hiện, thu giữ 12 (mười hai) viên nén hình hình trụ tròn màu hồng, đều có ký hiệu là WY, Vi Văn Nh khai nhận đây là ma tuý Hồng phiến mang về để sử dụng.

Về nguồn gốc số ma tuý Vi Văn Nh khai nhận:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 07/11/2023, Vi Văn Nh một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 36K1 - xxxxx, nhãn hiệu HONDA, loại WAVE ALPHA, màu trắng, đen, bạc đi từ nhà ở bản N, xã M, huyện M, tỉnh T đến xã N, huyện M để đi chơi. Khi đi đến đoạn đường thuộc bản K, xã N, huyện M, Nh gặp P (Nh có quen biết người này nhưng chỉ biết tên là P chứ không biết tuổi và địa chỉ của P). Tại đây, P đã rủ Vi Văn Nh đi chơi, Nh đã trả lời "trời lạnh không đi". Sau đó P hỏi Nh “có sử dụng ma tuý không”, Nh trả lời là có, P đã lấy từ trong người ra 01 (một) viên Hồng phiến rồi cả hai vào bụi cây bên lề đường và cùng nhau sử dụng. Sử dụng ma tuý xong, P đưa cho Nh 01 (một) gói nilon màu trắng và nói bên trong có Hồng phiến P cho Nh mang về để sử dụng dần. Nh đồng ý và nhận lấy gói ma túy mà P cho, sau khi nhận gói ma tuý Nh không mở ra xem mà cầm luôn ở tay phải rồi một mình điều khiển xe máy đi về nhà, còn P đi đâu làm gì Nh không biết. Khi Nh vừa đi được một đoạn thì gặp tổ công tác Đồn Biên phòng Pù Nhi và Công an xã N yêu cầu dừng xe để kiểm tra, do lo sợ bị phát hiện cất giấu ma tuý nên khi dừng xe máy Nh thả gói nilon đang cầm ở tay phải xuống mặt đường Quốc lộ 15C, ngay vị trí Nh dừng xe nhưng bị tổ công tác phát hiện, kiểm tra bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định số: 4071/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: 12 (một hai) viên nén hình trụ tròn màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,207g (một phấy hai không bảy gam), loại: Methamphetamine.

Về vật chứng và xử lý vật chứng trong vụ án:

- Số ma tuý của vụ án còn lại sau giám định đã được niêm phong vào một phong bì công văn do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóá phát hành đã được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lưu Bình N, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T làm giáp lai.

- 01 xe Wave ALPHA màu trắng đen bạc, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 36K1-xxxxx, số khung: RLHJA3927NY138831, số JA39E2635078, xe đã qua sử dụng.

- 01 đăng ký xe máy mang tên Vi Văn Nh.

Các vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

- Đối với tài sản thu giữ là chiếc điện thoại loại cảm ứng, màu đen, ốp vỏ ngoài màu trắng, nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này là của ông Vi Văn H, sinh năm 1983, trú tại bản N, xã M, huyện M, tỉnh T là bố đẻ của Vi Văn Nh. Vi Văn Nh mượn điện thoại của bố để sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội của Nh. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc điện thoại nói trên cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Vi Văn H.

- Đối với người đàn ông tên là P đã cho Vi Văn Nh ma túy (Hồng phiến) vào ngày 08/11/2023, Nhiên chỉ biết người đàn ông này là tên P, cao khoảng 1m65, khoảng hơn 20 tuổi, ngoài ra Nh không biết thông tin gì thêm. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh theo các đặc điểm nêu trên. Quá trình xác minh cho thấy, tại bản K, xã N không có đối tượng nào có đặc điểm nêu trên. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Tại Bản cáo trạng số: 16/CT-VKS-ML ngày 31/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh T truy tố bị cáo Vi Văn Nh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 18 đến 22 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: Số ma tuý của vụ án còn lại sau giám định đã được niêm phong vào một phong bì công văn do phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóá phát hành đã được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lưu Bình N, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.

+ Đối với tài sản thu giữ là 01 xe Wave ALPHA màu trắng đen bạc, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 36K1-xxxxx, số khung: RLHJA3927NY138831, số JA39E2635078, xe đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe máy mang tên Vi Văn Nh thu giữ của bị cáo, do không liên quan đến hành vi phạm tội của Vi Văn Nh nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiện đang sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí.

Người bào chữa trình bày lời bào chữa: Đồng tình với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện M về tội danh, điều luật và khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo là người dân tộc thiểu số, từ nhỏ sinh ra và lớn lên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật có nhiều hạn chế; bị cáo được cho ma tuý để sử dụng mặc dù biết hành vi tàng trữ ma tuý là vi phạm pháp luật tuy nhiên do bản thân không vượt qua được cám dỗ, lôi kéo mà để nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức án từ 16 đến 18 tháng tù để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo thành khẩn nhận tội, bị cáo đồng ý quan điểm bào chữa của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên.

Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như Kết luận giám định, Kết luận giám định bổ sung của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về căn cứ định tội, định khung hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn nhận tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Vào hồi 00 giờ 30 phút 29/3/2023, tại khu vực bản K, xã N, huyện M, tỉnh T, tổ công tác Đồn biên phòng Tam Pù Nhi – Bộ đội Biên phòng tỉnh T và lượng Công an xã N, huyện M kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Vi Văn Nh đang có hành vi tàng trữ 12 viên ma tuý là Hồng phiến. Bản kết luận giám định số:

4071/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: 12 (một hai) viên nén hình trụ tròn màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tồng khối lượng 1,207g (một phấy hai không bảy gam), loại: Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo tàng trữ 1,207g ma tuý với mục đích để sử dụng đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, khối lượng ma tuý là trên 0,1g và dưới 05g thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3]. Xét tính chất vụ án: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an ninh, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm để nhận thức được các hành vi liên quan đến ma tuý đều bị Nhà nước nghiêm cấm do những tác hại xấu đến đời sống kinh tế, xã hội cũng như sức khỏe của con người, ma tuý còn là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nhưng để nhằm phục vụ mục đích, nhu cầu cá nhân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Để pháp luật được tôn trọng, trật tự an toàn xã hội được duy trì; để giáo dục người phạm tội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo vì vậy cũng nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật để bị cáo yên tâm cải tạo, lao động trở thành công dân tốt.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, lao động tự do không có thu nhập ổn định, gia đình thuộc diện hộ nghèo nếu áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo thì không bảo đảm khả năng thi hành án nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6]. Về vật chứng của vụ án: Vật chứng của vụ án:

- Đối với số ma tuý của vụ án còn lại sau giám định đã được niêm phong vào một phong bì công văn do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóá phát hành đã được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lưu Bình N, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ;

- Đối với 01 xe Wave ALPHA màu trắng đen bạc, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 36K1-xxxxx, số khung: RLHJA3927NY138831, số JA39E2635078, xe đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe máy mang tên Vi Văn Nh thu giữ của bị cáo, đây là phương tiện bị cáo và gia đình dùng để đi lại, không liên quan đến hành vi cất giấu, tàng trữ ma tuý do đó cần xem xét trả lại cho bị cáo.

- Đối với tài sản thu giữ là chiếc điện thoại loại cảm ứng, màu đen, ốp vỏ ngoài màu trắng, nhãn hiệu Iphone đã qua sử dụng. Quá trình điều tra đã xác định chiếc điện thoại này là của ông Vi Văn H là bố đẻ của bị cáo, tại phiên toà ông ông Hào khai nhận do bị cáo bị hỏng điện thoại nên mượn điện thoại của ông để sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc điện thoại nói trên cho ông. Ông không có ý kiến, đề nghị gì thêm và cũng không còn quyền, nghĩa vụ gì lên quan trong vụ án nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7]. Về án phí:

Bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiện đang sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Vi Văn Nh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Vi Văn N 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 08/11/2023.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma tuý của vụ án còn lại sau giám định đã được niêm phong vào một phong bì công văn do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóá phát hành đã được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh T, Lưu Bình N, Trương Văn D và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T làm giáp lai.

+ Trả lại cho bị cáo Vi Văn Nhiên 01 xe Wave ALPHA màu trắng đen bạc, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 36K1-xxxxx, số khung: RLHJA3927NY138831, số JA39E2635078, xe đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe máy mang tên Vi Văn Nh.

Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

- Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về