Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 13/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2023/TLST - HS, n tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2023/QĐXXST - HS, ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo: NGUYỄN ĐÌNH C, sinh ngày: 21/10/1985 tại huyện C, tỉnh B; Nơi ĐKHKTT: thôn N, xã B, huyện C, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình T và con bà Nguyễn Thị B (đã chết); Có vợ là: Triệu Thị L và có 02 (Hai) con; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: ngày 22/11/2021 Nguyễn Đình C bị UBND xã N, huyện C, tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền phạt là 2.500.000 đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi cố ý gây thương tích (Quyết định số 02/QĐ - XPHC), ngày 24/11/2021 Nguyễn Đình C đã thi hành xong quyết định, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị bắt, tạm giừ từ ngày 04/10/2023 đến ngày 13/10/2023 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, ngày 16/10/2023 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nay tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 45 phút ngày 04/10/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, tổ công tác Công an xã B, huyện C, tỉnh B phát hiện Nguyễn Đình C đang đi bộ tại km 15 + 700 đường T thuộc thôn T, xã B có hành vi cất giấu 01 nhỏ được gói bằng giấy báo có chữ in màu đen bên trong chứa chất nghi là ma túy màu trắng dạng bột và cục trong lòng bàn tay phải, tổ công tác tạm giữ niêm phong 01 gói nhỏ trên vào phong bì ký hiệu NĐC.

Ngày 05/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành khám xét nhà ở của Nguyễn Đình C tại thôn N, xã B, huyện C, tỉnh B, kết quả: không phát hiện và thu giữ gì.

Quá trình điều tra, truy tố, Nguyễn Đình C thành khẩn khai nhận hành vi của mình về thời gian, địa điểm, nguồn gốc, số lượng ma túy mua được và tàng trữ. C khai nhận bản thân là người sử dụng ma túy, loại heroine, 01 gói nhỏ mà Công an thu giữ trên người là chất ma túy của C mua về chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, số ma túy trên C có được là vào sáng ngày 04/10/2023, C đi bộ từ nhà, dọc đường đi nhờ xe của người đàn ông không quen biết đến tổ G thị trấn Đ thì một mình đi bộ vào xóm B - K, xã Y, huyện P, tỉnh T tìm mua ma túy đề sử dụng, tại khu vực bãi tha ma C gặp và mua với một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ 01 gói ma túy có đặc điểm như trên với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) sau đó đi bộ về nhà, trên đường về đi nhờ xe máy của một người không quen biết đến chân đèo B thì xuống, khi C đang đi bộ trên đỉnh đèo thì bị Công an xã B bắt quả tang và thu giữ ma túy như nêu ở trên, số tiền mua ma túy là của C do lao động mà có, không có ai góp tiền hay nhờ mua ma túy.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong, thử phản ứng nhanh, cân xác định khối lượng ngày 04/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đối với vật chứng thu giữ được trên người Nguyễn Đình C, xác định: Chất màu trắng dạng bột, cục chuyển sang màu tím đỏ trùng khớp với bảng màu chất Heroine, có khối lượng là 0,121g (không phẩy một hai một gam). Sau khi cân, chất màu trắng được cho vào phong bì niêm phong ký hiệu NĐC1 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số: 315/KL - KTHS, ngày 12/10/2023 của Phòng K Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng bột và cục trong phong bì ký hiệu NĐC1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,12 lg (không phẩy một hai một gam).

Tại bản cáo trạng số: 53/CT - VKSCM, ngày 28 tháng 11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, điều 249/BLHS.

* Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a)...

c) Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

... ...” Tại phiên toà: * Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo C. Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS: xử phạt bị cáo C từ 15 (Mười lăm) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo C.

- Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47/Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu T176 mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả vụ: Nguyễn Đình C (1985) tàng trữ trái phép chất ma tuý”, mặt sau tại mép niêm phong có 04 (Bốn) chữ ký và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh B, bên trong có 0,090g (Không phẩy không chín không gam) ma túy, loại Heroine cùng phong bì ký hiệu NĐC1 chứa bao gói cũ sau khi giám định; 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu NĐC2 mặt trước ghi “Giấy gói cũ vụ Nguyễn Đình C” mặt được dán niêm phong, trên mặt niêm phong có 05 (Năm) chữ ký đề tên Âu Thị Hồng N, Nguyễn Đình C, Dịp T, Lương Quốc A, T T1 và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh B bên trong có giấy gói cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu NĐC.

* Bị cáo C thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như viện kiểm sát đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng quy định.

[2] Hồi 11 giờ 45 phút ngày 04/10/2023, tại km 15 + 700 đường tỉnh lộ 256 thuộc thôn T, xã B, huyện C, tỉnh B, Nguyễn Đình C đã có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp trên người 01 (Một) gói nhỏ ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,121g (không phẩy một hai một gam). Mục đích Nguyễn Đình C tàng trữ trái phép chất ma tuý là phục vụ nhu cầu sử dụng chất ma tuý của bản thân; ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Đình C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm C, khoản 1, điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy:

Bị cáo C có nhân thân xấu: ngày 22/11/2021 Nguyễn Đình C bị UBND xã N, huyện C tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền phạt là 2.500.000 đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi cố ý gây thương tích (Quyết định số 02/QĐ - XPHC), ngày 24/11/2021 Nguyễn Đình C đã thi hành xong quyết định, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo - theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS.

[5] Vật chứng: 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu T176 mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả vụ: Nguyễn Đình C (1985) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau tại mép niêm phong có 04 (Bốn) chữ ký và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh B, bên trong có 0,090g (Không phẩy không chín không gam) ma túy, loại Heroine cùng phong bì ký hiệu NĐC1 chứa bao gói cũ sau khi giám định; 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu NĐC2 mặt trước ghi “Giấy gói cũ vụ Nguyễn Đình C” mặt được dán niêm phong, trên mặt niêm phong có 05 (Năm) chữ ký đề tên Âu Thị Hồng N, Nguyễn Đình C, Dịp T, Lương Quốc A, T T1 và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh B bên trong có giấy gói cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu NĐC: tất cả không có giá trị, tịch thu tiêu hủy.

[6] Về quan điểm truy tố và đề nghị của Viện kiểm sát: là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho Nguyễn Đình C, quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý, xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không có tài sản, hộ nghèo, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung “phạt tiền” đối với bị cáo C.

[9] Bị cáo C thuộc hộ nghèo, có đơn xin miễn án phí, nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo C theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Đình C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Đình C: 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 04/10/2023 đến ngày 13/10/2023.

[3] Vật chứng: Căn cứ điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu T176 mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả vụ: Nguyễn Đình C (1985) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau tại mép niêm phong có 04 (Bốn) chữ ký và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh B, bên trong có 0,090g (Không phẩy không chín không gam) ma túy, loại Heroine cùng phong bì ký hiệu NĐC1 chứa bao gói cũ sau khi giám định; 01 (Một) phong bì niêm phong ký hiệu NĐC2 mặt trước ghi “Giấy gói cũ vụ Nguyễn Đình C” mặt được dán niêm phong, trên mặt niêm phong có 05 (Năm) chữ ký đề tên Âu Thị Hồng N, Nguyễn Đình C, Dịp T, Lương Quốc A, T T1 và 02 (Hai) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh B bên trong có giấy gói cùng phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu NĐC.

[4] Về án phí: Căn cứ các Điều 12, 15 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo C.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

[5] Quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2023/HS-ST

Số hiệu:13/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về