Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 13/2022/HS-PT NGÀY 18/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2022/TLPT-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn L và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình.

Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Nguyễn Văn L, sinh ngày 07/10/1990; nơi cư trú: Thôn Kim Đ, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Lê Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/7/2009 Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hoà Bình xử 15 tháng tù cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản, thời gian thử thách 20 tháng 22 ngày (Bản án số 38/2003/HSST); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt.

2. Nghiêm Quang P, sinh ngày 29/7/1992; nơi cư trú: Thôn Kim Đ, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nghiêm Quang V và bà Bùi Thị Đ; có vợ là Bùi Thị Hồng Th và 01 con sinh năm 2015; tiền án: Ngày 08/7/2021 Toà án nhân dân Thành phố H xử phạt 17 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (Bản án 73/2021/HSST); tiền sự: Ngày 22/6/2018, Toà án nhân dân huyện K áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc 24 tháng (Quyết định số 14/2018/QĐ-TA) ngày 24/10/2020 chấp hành xong; nhân thân: Ngày 31/10/2011, Toà án nhân dân quận C, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, đã chấp hành xong hình phạt tù và nộp án phí đầy đủ (Bản án số 268/2011/HSST); ngày 16/11/2015, Công an huyện K, tỉnh Hoà Bình xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác (Quyết định số 02/QĐ-XPHC) đã chấp hành xong; ngày 23/8/2016, Công an huyện K, tỉnh Hoà Bình xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý (Quyết định 97/QĐ-XPHC); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H Bình, có mặt.

3. Bùi Công Ch, sinh ngày 22/7/1989; nơi cư trú: Thôn Kim Đ, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Hùng M (đã chết) và bà Hoàng Thị X; có vợ là Huỳnh Thị Ngọc Đ và 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 20/8/2019 Công an phường C, thành phố Hoà Bình xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý (Quyết định số 19/QĐ-XPHC), chưa nộp phạt; ngày 29/8/2019, bị Toà án nhân dân huyện K áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng (Quyết định số 14/2019/QĐ - TA và ngày 07/8/2020 chấp hành xong; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt.

4. Chúc Thái H, sinh ngày 12/6/2000; nơi cư trú: Thôn L, xã V, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chúc Tạ S và bà Bàn Thị Ph; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn L và Chúc Thái H: Ông Nguyễn Đình H -Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hòa Bình; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nghiêm Quang P: Bà Nguyễn Thị Hồng Nh, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hòa Bình; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị (không triệu tập):

Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1987, trú tại: Thôn Kim Đ, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình.

Anh Ngô Viết T, sinh năm 1992, trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội.

Anh Bàn Can Đ, sinh năm 1998, trú tại: Thôn L, xã V, huyện H, tỉnh Q. Bà Lê Thị B, sinh năm 1959 (mẹ bị cáo L), trú tại: Thôn Kim Đ, xã T, huyện K, tỉnh Hoà Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/4/2021, Nguyễn Văn L được một người bạn cũ tên Sơn cho 01 gói nhỏ chất ma tuý (Heroine) để sử dụng. Khoảng 23 giờ cùng ngày, Bàn Can Đ và Chúc Thái H là bạn Nguyễn Văn L đến nhà Nguyễn Văn L chơi và ngủ lại nhà Nguyễn Văn L.

Đến khoảng 07 giờ sáng ngày 22/4/2021, Nghiêm Quang P đến nhà Nguyễn Văn L, hỏi Nguyễn Văn L còn ma tuý không để xin sử dụng. Nguyễn Văn L lấy số ma tuý Heroine mà Sơn cho ngày hôm trước chia thành hai phần, một phần Nguyễn Văn L để dưới nền nhà, một phần Nguyễn Văn L và Nghiêm Quang P sử dụng bằng hình thức dùng kim tiêm trực tiếp vào cơ thể. Khi L và P sử dụng Heroine, H và Đ nằm trên giường nhìn thấy, Đ hỏi L “Anh còn không cho em một tý cho tỉnh rượu”, L nói “Ở dưới nền lấy mà chơi” và tiếp tục sử dụng ma tuý. Đ lấy số ma tuý ở dưới nền nhà đổ vào giấy bạc đốt cùng Hoà sử dụng bằng hình thức hít trực tiếp vào cơ thể. Sử dụng ma tuý xong, Nghiêm Quang P, Bàn Can Đức và Chúc Thái Hoà ăn cơm trưa tại nhà L. Trong lúc ăn cơm trưa L nói nhỏ với P “Lát ăn cơm xong anh em mình đi lấy tý hàng (ý nói là đi mua ma tuý)” P trả lời “Ừ”. Ăn cơm xong, Nguyễn Văn L hỏi mượn điện thoại Iphone 6S Plus của Chúc Thái H nói là để cắm lấy tiền mua Đồ (ý là đi mua ma tuý), hỏi mượn 01 chiếc điện thoại Redmi note 8 và 01 xe mô tô biển kiểm soát: 33N3- 7380 của Bàn Can Đ nói đi có việc nhưng không nói để làm gì. L điều khiển xe chở P ra đến đầu ngõ thì P xuống xe đi vào sân nhà Bùi Công Ch, còn L đi đến cửa hàng điện thoại của anh Đỗ Văn Tài ở cùng thôn. Bùi Công Ch biết P và L đi mua ma túy nên Ch đưa 100.000 đồng cho P để P mua Heroine cho Ch để cùng nhau sử dụng. Nguyễn Văn L cầm cố chiếc điện thoại Iphone 6S Plus (mượn của Chúc Thái H) cầm đồ tại hàng điện thoại của anh Đỗ Văn T ở cùng thôn được 300.000 đồng, sau đó quay lại đón P đi thành phố Hòa Bình để mua ma túy.

Khi L chở P đi đến đỉnh dốc C, xóm Đỉnh C, xã P, huyện C, tỉnh Hoà Bình, L đưa cho P số tiền 100.000 đồng (tiền cầm cố chiếc điện thoại của H) để P đi mua ma túy. Nghiêm Văn P điều khiển xe mô tô đi đến đoạn đường chân dốc C, thuộc địa phận phường T, thành phố Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình, mua 200.000 đồng ma túy của một người đàn ông không quen biết, trong đó 100.000 đồng là tiền của Ch và 100.000 đồng là tiền L, người bán đưa cho P một gói ma túy, P nhận gói ma túy nhưng không mở ra xem, đi xe mô tô quay lại chỗ L. Đi được khoảng 01 km P dừng xe, chia số ma tuý vừa mua thành hai gói, khi về đến đỉnh dốc Cun thì P gặp L, L điều khiển xe chở P ngồi sau. Khi về đến sân nhà L thì bị bắt quả tang hồi 13 giờ 30 ngày 22/4/2021, thu giữ được trong tay trái của P 02 gói ma túy (một gói chứa chất bột màu trắng, 01 gói chứa chất bột màu hồng dạng cục) P khai là ma tuý L và P mua để cùng sử dụng.

Bản kết luận giám định số: 128/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 29/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

Chất bột dạng cục màu trắng trong gói ký hiệu Gói 1 trong bì niêm phong ghi: Tang vật nghi là chất ma tuý thu giữ của Nguyễn Văn L và Nghiêm Quang P, bắt quả tang ngày 22/4/2021, gửi giám định có khối lượng 0,17g (không phẩy mười bảy gam) là ma tuý, loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Chất bột màu hồng trong gói ký hiệu Gói 2 trong bì niêm phong ghi: Tang vật nghi là chất ma tuý thu giữ của Nguyễn Văn L và Nghiêm Quang P, bắt quả tang ngày 22/4/2021, gửi giám định có khối lượng 0,0023g (không phẩy không nghìn không trăm hai mươi ba gam) là ma tuý, loại Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Đối với Bàn Can Đ, quá trình điều tra xác định Đ không biết L mượn xe mô tô BKS 33N3-7380 và điện thoại di động Redmi Note 8 để đi mua ma túy nên không đề cập xử lý.

Bản kết luận điều tra số 41/BKL-CQĐT ngày 06/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Hòa Bình đề nghị truy tố các bị can Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch, Chúc Thái H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 08/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình truy tố các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch, Chúc Thái H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Ngày 15/9/2021, Tòa án nhân dân huyện K ra Quyết định số 03/2021/HSST-QĐ trả hồ sơ điều tra bổ sung: Xác định vai trò đồng phạm của Bàn Can Đ trong việc Đ cho L mượn điện thoại di động và xe mô tô để L mua ma túy. Xác định phần ma túy của Bùi Công Ch trong số ma túy bị bắt quả tang để xác định trách nhiệm hình sự đối với Bùi Công Ch.

Ngày 21/10/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình đã có Công văn số 475/CV-VKS, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch, Chúc Thái H tại Cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 08/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K (BL 476).

Ngày 05/11/2021, Tòa án nhân dân huyện K đã ra Quyết định số 06/2021/HSST-QĐ trả hồ sơ điều tra bổ sung (lần 02): Điều tra để khởi tố bổ sung Nguyễn Văn L về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 255 Bộ luật hình sự.

Ngày 22/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình có Công văn số 01/CV-VKS, giữ nguyên Cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 08/9/2021 về việc truy tố Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch, Chúc Thái H về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BL 519).

Tại bản án số 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình đã xử:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2021).

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58, Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nghiêm Quang P 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tổng hợp với hình phạt 17 tháng tù của bản án số 73/2021/HSST ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình; buộc bị cáo Nghiêm Quang P chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 41 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2021).

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Công Ch 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2021).

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Chúc Thái H 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 22/4/2021). Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 18/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình ban hành Quyết định kháng nghị số 32/QĐ-VKS, kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình, đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình giữ nguyên quyết định kháng nghị. Các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như nội dung bản án sơ thẩm.

Trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình nêu quan điểm:

Bản án số 06/2022/HS-ST ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình xét xử các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, trước khi các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Chúc Thái H bị bắt về hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Chúc Thái H và Bàn Can Đ đều khai nhận đã cùng nhau sử dụng chất ma túy tại nhà Nguyễn Văn L. Ma túy là của L được một người bạn cũ tên Sơn không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể cho L một gói nhỏ chất ma tuý để L sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong các bị cáo cùng nhau ăn trưa và bàn bạc góp tiền tiếp tục đi mua ma túy về để sử dụng thì bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngay sau khi bắt quả tang thể hiện Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bàn Can Đ và Chúc Thái H đều dương tính với ma túy. Căn cứ mục 1, phần I, Công văn 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân Tối cao thì hành vi cung cấp chất ma túy cho người khác sử dụng của Nguyễn Văn L cấu thành tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 255 BLHS. Bản án số 06/2022/HS- ST ngày 19/1/2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình nhận định: “ Bị cáo Nguyễn Văn L có hành vi cung cấp ma túy cho các bị cáo sử dụng tại nhà của mình. Tuy nhiên chỉ có lời khai của các bị cáo, cơ quan điều tra không thu thập được vật chứng gì chứng minh do đó chưa đủ căn cứ để khởi tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, cơ quan điều tra chưa làm rõ Chúc Thái H có biết và đồng phạm với Nghiêm Quang P về việc P cầm 100.000đ của Bùi Công Ch để mua ma túy về sử dụng hay không; chưa làm rõ giữa Bùi Công Ch và Nghiêm Quang P đã bàn bạc cụ thể với nhau như thế nào về việc góp tiền mua ma túy (Ch có biết việc H cho mượn điện thoại để đi mua ma túy; mỗi bên góp bao nhiêu tiền và Ch sẽ mua bao nhiêu tiền ma túy để cùng sử dụng) để đánh giá chứng cứ, cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b, khoản 1, Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình để điều tra, xét xử lại.

Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Văn L và Chúc Thái H và Nghiêm Quang P, ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị Hồng Nh đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn L, Chúc Thái H và Nghiêm Quang P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án vào ngày 19/01/2022, ngày 18/02/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình ban hành Quyết định kháng nghị. Căn cứ Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình trong hạn luật định, hợp lệ, được chấp nhận.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của các bị cáo trong cùng vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 22/4/2021, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô mượn của Bàn Can Đ chở Nghiêm Quang P vừa đi mua ma túy về đến khu vực sân nhà L thì bị bắt quả tang. Thu giữ trong tay trái của P hai gói ma túy (0,17g Heroine và 0,0023g Methamphetamine). L và P khai nhận, L rủ P đi mua ma túy để sử dụng. L mượn điện thoại của Chúc Thái H mang cầm đồ lấy tiền mua ma túy, mượn xe mô tô của Bàn Can Đ chở P đi mua ma túy; L cầm cố chiếc điện thoại của Chúc Thái H được 300.000 đồng, đưa cho P 100.000 đồng để mua ma túy.

Bùi Công Ch biết P và L đi mua ma túy nên đã góp 100.000 đồng đưa cho P mua ma túy để các bị cáo cùng nhau sử dụng. Chúc Thái H biết rõ L hỏi mượn điện thoại của H mang cầm đồ lấy tiền mua ma túy nhưng vẫn giao điện thoại của mình cho L mượn. Như vậy, với ý thức chủ quan, hành vi khách quan, khối lượng ma túy đã thu giữ quả tang của bị cáo P và L thì hành vi của Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H đã thực hiện nêu trên cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

[3] Tuy nhiên, về tội tàng trữa trái phép chất ma túy, cơ quan điều tra chưa làm rõ Chúc Thái H có biết và đồng phạm với Nghiêm Quang P về việc P cầm 100.000đ của Bùi Công Ch để mua ma túy về sử dụng hay không; chưa làm rõ giữa Bùi Công Ch và Nghiêm Quang P đã bàn bạc cụ thể với nhau như thế nào về việc góp tiền mua ma túy (Ch có biết việc H cho mượn điện thoại để đi mua ma túy; mỗi bên góp bao nhiêu tiền và Ch sẽ mua bao nhiêu tiền ma túy để cùng sử dụng) để đánh giá chứng cứ, xác định vị trí, vai trò của các bị cáo để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Về dấu hiệu lọt tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Trong vụ án này, ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì Nguyễn Văn L còn có hành vi cung cấp chất ma túy cho Nghiêm Quang P, Bàn Can Đ, Chúc Thái H và cho những người này sử dụng ma túy tại nhà ở của L vào ngày 22/4/2021. Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngay sau khi bắt quả tang thể hiện Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Chúc Thái H và Bàn Can Đ đều dương tính với ma túy.

Theo hướng dẫn tại Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021, Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi cung cấp ma túy của Nguyễn Văn L và cho các đối tượng Nghiêm Quang P, Bàn Can Đ, Chúc Thái H và cho những người này sử dụng ma túy tại nhà ở của Nguyễn Văn L có dấu hiệu của tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 255 của BLHS.

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân huyện K thấy có dấu hiệu lọt tội (Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 255 Bộ luật Hình sự) nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã có văn bản số 01/CV-VKS ngày 22/12/2021 về việc giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 BLHS. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xét xử các bị cáo Nguyễn Văn L, Nghiêm Quang P, Bùi Công Ch và Chúc Thái H về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 298 BLTTHS năm 2015 quy định về giới hạn của việc xét xử. Tuy nhiên, tại phần nhận định của bản án sơ thẩm có nêu “Bị cáo Nguyễn Văn L có hành vi cung cấp ma túy cho các bị cáo sử dụng tại nhà của mình. Tuy nhiên chỉ có lời khai của các bị cáo, cơ quan điều tra không thu được vật chứng gì chứng minh do đó chưa đủ căn cứ để khởi tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định trong bản án nội dung nêu trên là không cần thiết.

[5] Để giải quyết triệt để vụ án, đánh giá chứng cứ, vị trí, vai trò, cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo mục [3] và mục [4], cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại là có căn cứ, được chấp nhận.

Việc hủy Bản án sơ thẩm là do khách quan, không phải do lỗi chủ quan của Tòa án cấp sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b khoản 1 Điều 358 Bộ Luật tố tụng hình sự.

Hủy bản án sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình.

Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hòa Bình để điều tra lại

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-PT

Số hiệu:13/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về