Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 13/2021/HSST NGÀY 17/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện TC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lò Văn P, tên gọi khác: Không; sinh năm 1997 tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản Lốm Pè, xã PL, huyện TC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn Lanh, sinh năm 1969 và bà Lò Thị Vua, sinh năm 1975; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20 tháng 7 năm 2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lường Văn L, sinh năm 1988; nơi cư trú: bản Lốm Pè, xã PL, huyện TC, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, Tổ công tác Công an xã PL, huyện TC, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản Kiến Xương, xã PL, huyện TC, phát hiện bắt quả tang Lò Văn P có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng bên trong có chứa bột cục màu trắng và 01 (một) viên nén màu hồng (Theo Lò Văn P khai là heroine và ma túy tổng hợp); Một chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe TAURUS, biển kiểm soát 26B1-215.83; Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng.

Hồi 09 giờ 00 phút ngày 21/7/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niên phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: số bột cục màu trắng trong gói giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng có khối lượng 0,05 gam. Trích toàn bộ 0,05 gam, ký hiệu P1 gửi giám định; 01 (một) viên nén màu hồng trong gói giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng có khối lượng 0,11 gam. Trích toàn bộ 0,11 gam, ký hiệu P2 gửi giám định.

Kết luận giám định số: 1338/KL ngày 28/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu P1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu P2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,11 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ 0,05 gam, loại Heroine và 0,11 gam loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra Lò Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 20/7/2021, Lò Văn P đang ở nhà một mình tại bản Lốm Pè, xã PL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì có Quyễn Quốc V nhà ở bản Bay, xã PL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La gọi điện cho P và rủ P góp tiền mua ma túy về sử dụng. P đồng ý rồi điều khiển xe máy biển kiểm soát 26B1-215.83 đến bản Bay, xã PL gặp V. Gặp nhau P lấy ra số tiền 50.000 đồng đưa cho V, V góp số tiền 150.000 đồng. Sau đó V điều khiển xe máy chở P xuống bản Kiến Xương, xã PL, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy. Khi P và V đến khu vực bản Kiến Xương, xã PL gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Kinh (P không biết tên, địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói ma túy gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng bên trong có Heroine và 01(một) viên hồng phiến với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V cầm gói ma túy vừa mua được đưa cho P, P cất giấu ma túy ở tay phải. Sau đó V điều khiển xe máy chở P đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi P và V đi được khoảng 300 mét thì bị tổ công tác Công an xã PL, huyện Thuận Châu yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy thì V nhảy xuống xe bỏ chạy thoát, còn P bị tổ công tác bắt giữ và thu giữ cùng vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 142/CT- VKSTC ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC truy tố bị cáo Lò Văn P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lò Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện TC giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn P từ 14 (mười bốn) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng;

01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng.

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lường Văn L: một chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe TAURUS, biển kiểm soát 26B1- 215.83.

Bị cáo Lò Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn P thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có ý kiến: anh Lường Văn L có ý kiến xin lại chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe TAURUS, biển kiểm soát 26B1-215.83 và không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 20/7/2021 bị cáo Lò Văn P đã có hành vi cất giữ trái phép 0,16 gam chất ma túy (0,05 gam Heroine và 0,11 gam Methamphetamine) trong người (trong lòng bàn tay trái ) với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại bản Kiến Xương, xã PL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 20/7/2021; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 1338/KL ngày 28/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,16 gam chất ma túy (0,05 gam Heroine và 0,11 gam Methamphetamine) trong người (trong lòng bàn tay trái ) với mục đích để sử dụng của bị cáo Lò Văn P đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Lò Văn P khai mua của một người đàn ông dân tộc Kinh không biết họ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bản Kiến Xương, xã PL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 20/7/2021. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, buộc bị cáo Lò Văn P phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[6] Đối với Nguyễn Quốc V nhà ở bản Bay, xã PL, huyện TC, tỉnh Sơn La là đối tượng gọi điện cho P và rủ P góp tiền mua ma túy về cùng nhau sử dụng vào ngày 20/7/2021. Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện TC đã tiến hành điều tra, xác minh tại bản Bay, xã PL, huyện TC không có người nào tên là Nguyễn Quốc V như P khai tại cơ quan điều tra. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ để xử lý.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, 01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng, số IMEI: 355784070413364, đã qua sử dụng cũ thu giữ của bị cáo Lò Văn P là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu nhãn hiệu YAMAHA, loại xe TAURUS, biển kiểm soát 26B1-215.83 là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lường Văn L. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe máy vào việc phạm tội, anh L không biết, do đó cần trả lại chiếc xe máy cho anh Lường Văn L theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lò Văn P phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn P 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20/7/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn P - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20/7/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024591 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện TC. Bên trong có: 01 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng, số IMEI: 355784070413364, điện thoại đã qua sử dụng.

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lường Văn L: một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe TAURUS, biển kiểm soát 26B1- 215.83, màu sơn đỏ- đen, số máy: 002840, số khung: 001328, xe đã qua sử dụng, xe bị vỡ và hỏng nhiều chỗ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lò Văn P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Văn P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Lường Văn L được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2021/HSST

Số hiệu:13/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về