Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 131/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 131/2024/HS-PT NGÀY 15/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 137/2024/TLPT-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo Bùi Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

- Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Tuấn A; sinh ngày 19 tháng 12 năm 2001, tại Quảng Bình; Nơi thường trú: TDP A, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình và chỗ ở hiện nay: thôn T, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá:

10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Công P, sinh năm: 1976, hiện cư trú tại tỉnh Hà Tĩnh và bà Phạm Thị Hồng P1, sinh năm: 1976; hiện trú tại: TDP A, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Gia đình có 02 người con, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; có 01 con sinh năm 2021; tiền án: không, tiền sự: Ngày 05/7/2023 bị Công an huyện Q, tỉnh Quảng Bình ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy với số tiền 3.500.000 đồng. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2023 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q. Bị cáo vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 28/6/2023, tại khu vực cầu L trên đường N đến đường H thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Q phát hiện Trương Công L điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 73G1-X đang lưu thông theo hướng từ đường tránh thành phố Đ lên đường H, khi đi đến biển báo cầu L thì L dừng xe lại và nhặt một gói nilon màu vàng được đặt sẵn tại vị trí chân biển báo; thấy L có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác tiến hành giữ Trương Công L và kiểm tra gói ni lon màu vàng mà L đang cầm trên tay thu giữ 1.993 (một nghìn chín trăm chín mươi ba) viên nén hình tròn trong đó có 1.973 (một nghìn chín trăm bảy mươi ba) viên màu hồng và 20 (hai mươi) viên màu xanh. Trương Công L khai nhận toàn bộ số viên nén trên là ma túy hồng phiến L cầm về cất giấu để sử dụng vừa bán kiếm lời.

Căn cứ vào lời khai của Trương Công L và tài liệu điều tra, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Q tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Trung T trú tại thôn T, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Quá trình khám xét thu giữ trong phòng ngủ của Bùi Tuấn A (là người làm thuê cho Nguyễn Trung T) 01 (một) gói giấy bên trong chứa 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng. Bùi Tuấn A khai nhận 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng là ma túy hồng phiến do Tuấn A mua từ lâu, mục đích cất giấu để sử dụng.

Quá trình điều tra bị cáo Trương Công L khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/6/2023, khi L đang ở nhà tại thôn R, xã N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình thì nhận được điện thoại từ số 033.336.5X của Nguyễn Trung T (còn gọi là Thành A1, trú tại xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình) nói với L: “Có người gọi rồi nhận” và dặn L xóa lịch sử cuộc gọi, L hiểu là T nói chờ nhận ma túy hồng phiến, L đồng ý và ở nhà chờ. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, Bùi Tuấn A (tên thường gọi là Cu B) dùng số điện thoại 0339.X.106 gọi đến số điện thoại 0839.066.X của L với nội dung: “Ra cầu L đường tránh để lấy”, L hiểu là ra cầu L để lấy ma túy hồng phiến. L điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát G1-X đi từ đường H chạy qua cầu L sau đó vòng lại dừng xe và nhặt lên cầm ở tay thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ. Số ma túy hồng phiến trên L sẽ mang về cất giấu và bán khi có người hỏi mua hoặc khi Nguyễn Trung T chỉ đạo L bán cho ai thì L sẽ bán cho người đó, tiền bán ma túy được L đưa trực tiếp cho Nguyễn Trung T tại nhà riêng của T, T trả công cho L bằng tiền và ma túy hồng phiến để L sử dụng.

Quá trình điều tra, Bùi Tuấn A không thừa nhận việc liên lạc với Trương Công L để báo vị trí cho L đến lấy ma túy hồng phiến trong ngày 28/6/2023; Nguyễn Trung T cũng không thừa nhận việc liên lạc và chỉ đạo Trương Công L lấy ma túy và bán vào ngày 28/6/2023.

Tại Bản kết luận giám định số 738/KL-KTHS ngày 01/7/2023 và số 739/KL-KTHS ngày 06/7/2023 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận:

- 1.973 (một nghìn chín trăm bảy mươi ba) viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của Trương Công L khi bắt quả tang ngày 28/6/2023 là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 188,99g (một trăm tám mươi tám phẩy chín mươi chín gam);

- 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng thu giữ trong lúc khám xét phòng ngủ của Bùi Tuấn A ngày 29/6/2023 là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,183g (không phẩy một trăm tám mươi ba gam).

Bản cáo trạng số: 89/CT-VKSQB-P1, ngày 29 tháng 11 năm 2023; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã truy tố Trương Công Linh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 BLHS và Bùi Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Tuấn A 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 30/6/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trương Công L, về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05/02/2024, bị cáo kháng cáo Bùi Tuấn A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Tuấn A; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận:

Trên cơ sở lời khai của bị cáo Trương Công L, ngày 29/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Q tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Trung T trú tại thôn T, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Quá trình khám xét thu giữ trong phòng ngủ của Bùi Tuấn A (là người làm thuê cho Nguyễn Trung T) 01 (một) gói giấy bên trong chứa 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng, là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,183g. Bùi Tuấn A khai nhận số ma túy này do Tuấn A mua từ lâu, mục đích cất giấu để sử dụng.

Với hành vi trên, án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Bùi Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn dứ, đúng pháp luật.

[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; nhận thấy: Án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội; bị cáo có nhân thân xấu (ngày 05/7/2023 bị Công an huyện Q, tỉnh Quảng Bình ra Quyết định xử phạt hành chính 3.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy); Đồng thời cũng đã xét quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, để đã xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên không có cơ sở để chấp nhận.

[2]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[3]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Bùi Tuấn A phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Tuấn A 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 30/6/2023.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật và được thi hành theo Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2024/HS-ST ngày 24/01/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

3. Án phí phúc thẩm: Bị cáo Bùi Tuấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 131/2024/HS-PT

Số hiệu:131/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về