Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 131/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 131/2022/HS-ST NGÀY 24/10/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh H xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 118/2022/TLST-HS ngày 28/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2022/QĐXXST-HS ngày 10/10/2022 đối với bị cáo:

Lường Văn D, sinh năm 1996 tại Đ; nơi ĐKHKTT: Bản C, xã S, huyện Đ, tỉnh Đ; nơi ở: Tổ dân phố N, phường D, thị xã Duy Tiên, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Y (đã chết) và bà Lò Thị K; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt, tạm giữ ngày 21/7/2022, tạm giam từ ngày 27/7/2022 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Vũ Quang T, sinh năm 1990; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 20/7/2022, Lường Văn D đi bộ đến khu vực cầu vượt Đồng Văn, thị xã Duy Tiên mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, D gặp một người thanh niên không quen biết khoảng 30 tuổi đang ngồi trên xe môtô (không rõ nhãn hiệu, biển số xe), D hỏi người thanh niên: “Anh có biết chỗ nào lấy đồ không” (ý D hỏi mua ma túy) thì người đó trả lời: “Có, đưa tiền đây”, D nói: “Em có hai trăm nghìn” rồi lấy ra số tiền 200.000 đồng đưa cho người thanh niên. Sau đó người thanh niên điều khiển xe môtô chở D đến khu vực tổ dân phố Đình Tràng, phường Lam Hạ, thành phố P thì dừng lại bảo D xuống xe đứng đợi rồi điều khiển xe đi tiếp. Một lát sau, người thanh niên quay lại đón D, trên đường đi người này đưa cho D 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và nói: “Đồ ở bên trong”. Biết trong vỏ bao thuốc lá người thanh niên đưa cho có ma túy, D liền cầm lấy rồi cất trong cạp quần trước bụng. Khi hai người đi đến khu vực thôn Đại Cầu, xã Tiên Tân, thành phố P thì bị lực lượng Công an xã Tiên Tân, thành phố P đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Lợi dụng sơ hở, người thanh niên phóng xe bỏ chạy thoát. Tại chỗ, D tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, kiểm tra bên trong thấy có 02 gói giấy bạc màu vàng đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, D khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh xám.

Tại bản Kết luận giám định số 368/KL-KTHS ngày 26/7/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,132 gam, loại Heroine”.

Bản Cáo trạng số 128/CT-VKS-PL ngày 27/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh H đã truy tố Lường Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Lường Văn D, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lường Văn D từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lường Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/7/2022, tại khu vực thôn Đại Cầu, xã Tiên Tân, thành phố P, Lường Văn D bị lực lượng Công an xã Tiên Tân, thành phố P, tỉnh H bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,132 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh H truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt; bản thân chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân là người dân tộc thiểu số (dân tộc Thái) phạm tội nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo thành người có ích, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định và tài sản riêng; phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên khoảng 30 tuổi theo bị cáo khai gặp ở khu vực cầu vượt Đồng Văn, thị xã Duy Tiên là người đã đi mua ma túy đưa cho bị cáo để cất giấu, do quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để xác minh nhưng không xác định được đặc điểm nhân thân, lai lịch của người này, ngoài lời khai của bị cáo ra không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Lường Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21/7/2022.

2. Xử lý vật chứng:

2.1. Trả lại cho bị cáo Lường Văn D 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh xám, có phím bấm, số IMEIL: 357401/04/508972/8, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

2.2. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 368/KTHS có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P ngày 03/10/2022.

3. Án phí: Bị cáo Lường Văn D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 131/2022/HS-ST

Số hiệu:131/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về