Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 130/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 130/2023/HS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 133/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Châu Anh P, sinh năm 1990 tại A; Nơi cư trú: ấp B, xã B, thành phố L, tỉnh Đ; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Châu K, sinh năm 1970 và bà Chu Kim P1, sinh năm 1972; anh, chị, em ruột: có 03 người, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình, nhỏ nhất sinh năm 2005; Vợ: Lộc Ửng M, sinh năm 1989 (đã ly hôn); con: có 01 người, sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ từ ngày 13/4/2023 đến ngày 22/4/2023 và tạm giam cho đến nay, có mặt.

Nhân thân: Năm 2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong ngày 28/4/2018.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Trịnh Xuân H, sinh năm 2002.

Địa chỉ: số E, khu phố F, phường T, Quận A, Thành phố H (vắng mặt).

- Người làm chứng: anh Nguyễn Thành H1, sinh năm 1995. Địa chỉ: khu phố B, phường B, thành phố L, tỉnh Đ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Châu Anh P là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2015, hình thức và loại ma túy sử dụng là hút ma túy đá (Methamphetamine).

Vào ngày 08/4/2023, P đón xe khách lên quận T, Thành phố H gặp và mua của 01 người đàn ông tên T (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) 1.000.000 đồng tiền ma túy đá được 01 đoạn ống nhựa hút nước hàn kín, bên trong chứa ma túy đá. P lấy ra sử dụng một ít, còn lại cát giấu trong người mang về nhà tại ấp B, xã B, thành phố L. Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 11/4/2023, P tiếp tục lấy ra một ít sử dụng rồi cất giấu trong ví da của mình. Đến 15 giờ 10 phút, ngày 13/4/2023, P điều khiển xe máy hiệu Exciter biển số 60B2- xxxxx đi đến đoạn đường D thuộc khu phố B, phường B, thành phố L thì gặp Công an phường B phối hợp với Công an thành phố L tiến hành tuần tra, kiểm soát. Qua kiểm tra phát hiện trong ví da trên người P có 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín, bên trong chứa ma túy đá nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 769/KT-KTHS ngày 19/4/2023, Phòng K1 Công an tỉnh Đ kết luận: Mau tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,2532 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

- 01 đoạn ống nhựa hút nước chứa ma túy đá, sau giám định hoàn lại trong 1 niêm phong số 769/KL-KTHS ngày 19/4/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đ và 01 ví da màu đen đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự để phục vụ công tác xét xử.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 60B2-xxxxx, qua điều tra xác định được xe mô tô này là xe của anh Trịnh Xuân H, sinh năm 2002, ngụ tại phường H, quận A, thành phố H cho P mượn sử dụng. Biển số thật của xe là 59G2-931.87, nhưng trong quá trình sử dụng xe P nhặt được biển số 60B2-xxxxx ở ngoài đường và thấy biển số đẹp nên gắn vào xe mô tô này để đi. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại xe này cho anh H.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung thu giữ của bị cáo P, qua điều tra xác định được đây là tài sản hợp pháp của P, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố L đã trả lại cho P.

Tại Bản Cáo trạng số 123/CT-VKSLK ngày 01/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố bị cáo Châu Anh Phúc về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như bản cáo trạng trên và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Vật chứng vụ án:

Đề nghị tiêu hủy 01 ví da và số ma tuý còn lại sau giám định.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo nhận thấy: Tại phiên toà, bị cáo Châu Anh P khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào lúc 15 giờ 10 phút, ngày 13/4/2023, tại số C, đường D, phường B, thành phố L, Công an thành phố L bắt quả tang Châu Anh P đang tàng trữ 0,2532 gam ma tuý Methamphetamine trong ví da mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý ma tuý của nhà nước. Ma tuý là chất độc hại, gây nghiện, người sử dụng sẽ ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, ma tuý còn là nguyên nhân của các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ hiểm họa của ma tuý nhưng vẫn mua về để sử dụng. Trước lần phạm tội này, năm 2016, bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Mặc dù đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định và 01 ví da màu đen.

Đối với 01 xe mô tô biển số 60B2-xxxxx, qua điều tra xác định không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung thu giữ trên người của bị cáo P, qua điều tra xác định không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho bị cáo P là phù hợp.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Đ tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1. Tuyên bố bị cáo Châu Anh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt: Bị cáo Châu Anh P 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/4/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì kí hiệu số 769/KL-KTHS ngày 19/4/2023 của phòng Kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Đ và 01 ví da màu đen.

(Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/8/2023).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/20 lố/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 130/2023/HS-ST

Số hiệu:130/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về