Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 128/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1979; Nơi ĐKTT: Xóm B, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1957 và bà Dương Thị H, sinh năm 1958; vợ: Bùi Thị Đ (đã ly hôn); con: 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: ngày 16/4/2020, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng (chấp hành xong ngày 16/3/2022); nhân thân: ngày 29/7/2008, Công an thành phố P ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” mức phạt 200.000đ; ngày 20/6/2018, Công an thành phố P Lý ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Mua số lô, số đề trái phép”, mức phạt 350.000đ; ngày 25/6/2019, Ủy ban nhân dân xã L ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/08/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 26/08/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn H1, sinh năm 1993; địa chỉ: Xóm N, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Phạm Văn H2, sinh năm 1965; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 20/8/2023, Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô BKS 90B2 – X từ nhà đi tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực xóm 3, xã L, thành phố P, H gặp người đàn ông tên A, khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), H hỏi mua ma túy và đưa cho người tên A số tiền 200.000đ, Người này cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô của H đi mua ma túy còn H đứng đợi. Một lúc sau anh ta quay lại đưa cho H 01 gói giấy bạc màu vàng và dặn H hàng đó cất cẩn thận. H biết đó là ma túy nên cầm trong lòng bàn tay phải, Người này tiếp tục điều khiển xe môt ô chở H đi mua xi lanh để sử dụng. Khi đi đến hiệu thuốc thuộc xóm B, xã L, thành phố P thì lực lượng Công an đến yêu cầu kiểm tra, Người tên A xuống xe bỏ chạy thoát còn H tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng dục và khai nhận đó là ma túy cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa H về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô BKS 90B2 – X.

Tại bản Kết luận giám định số 575/KL – KTHS ngày 25/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,201 (không phẩy hai trăm linh một) gam” loại heroine.

Tại bản cáo trạng số 132/CT-VKS-PL ngày 22/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ; Bị cáo phạm tội không có tài sản, thu nhập, mục đích phạm tội không trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định cùng bao gói. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 90B2 – X quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Văn H1 (là bạn của Nguyễn Văn H), anh Hoàng Văn H1 cho bị cáo mượn xe để đi lại, không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho anh Hoàng Văn H1.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo pháp luật quy định.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin miễn phạt tiền bổ sung.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị: xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 90B2 – X tài sản hợp pháp của anh Hoàng Văn H1 mua và dứng tên chính chủ (là bạn cùng làm thạch cao với Nguyễn Văn H), ngày 20/8/2023 anh Hoàng Văn H1 cho bị cáo mượn xe để sử dụng, không biết bị cáo dùng xe rồi thực hiện hành vi phạm tội nên xin Tòa cho nhận lại xe càng sớm, càng tốt để làm phương tiện đi làm hàng ngày.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp; các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra công khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ để buộc tội:

Khoảng 13 giờ 05 phút, ngày 20/8/2023, tại xóm B, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn H cất giữ trái phép 0,201 gam chất ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu; hai lần bị xử phạt hành chính là phạt tiền trong đó có một lần về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; một lần bị giáo dục tại xã và một lần Tòa án áp dụng biện phâp xử lý hành chính bị bắt buộc cai nghiện 18 tháng (chấp hành xong 16/3/2022), hiện còn chưa xóa tiền sự; nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, cải tạo bản thân mà lại phạm tội, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, làm mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì, không có công việc và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của bị cáo: Bị cáo khai là do người đàn ông tên A đi mua ma túy đưa cho bị cáo. Cơ quan CSĐT– Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã L, thành phố P xác minh nhưng không xác định được. Ngoài lời khai của bị cáo H, không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với ma túy là vật cấm lưu hành cùng bao gói trong 01 phong bì niêm phong số 575/KTHS; Mặt trước của các phong bì niêm phong ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01” phải tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 90B2 – X quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Văn H1 (là bạn của Nguyễn Văn H), anh Hoàng Văn H1 cho bị cáo mượn xe để đi lại, không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho anh Hoàng Văn H1 là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/08/2023.

[3] Xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 575/KTHS. Mặt trước của các phong bì niêm phong ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01” Tại mép dán mặt sau của phong bì niêm phong có 02 (hai) chữ ký, 01 (một) chữ ký đóng dấu chức danh giám định viên Đỗ Thị Hồng H, 01 (một) chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Thị Bích Hồng H; 03 (ba) dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Hà Nam.

- Trả lại anh Hoàng Văn H1 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn Trắng đen, biển kiểm soát: 90B2-X (xe cũ đã qua sử dụng).

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 24/10/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt; được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 128/2023/HS-ST

Số hiệu:128/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về