Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 126/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2022/HS- ST ngày 07 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần H, sinh năm 1984 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước khi bị bắt: đường C, phường D, thành phố V, tỉnh, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần V, sinh năm 1952; con bà Nguyễn T sinh năm 1953; có 4 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 17 tháng 12 năm 2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn P, sinh năm 1953; địa chỉ: đường C, phường D, thành phố V, tỉnh, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại trước nhà nghỉ “G” địa chỉ số đường R, phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố V phối hợp với Công an phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát hiện bắt quả tang Trần H đang tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) đồng thời thu giữ vật chứng của vụ án.

Quá trình điều tra, Trần H khai nhận: H là người nghiện ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên chiều ngày 17-12-2021, H gọi điện cho người thanh niên tên R (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 70L1- 107.21 đến điểm hẹn tại Nhà thờ “Z” đường C, phường M, thành phố V để lấy ma túy. Sau khi nhận ma túy, H cất giấu trong người. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày 17-12-2021, H mang gói ma túy đi đến nhà nghỉ “G” ở đường R, phường M, thành phố V nhằm mục đích thuê phòng để sử dụng ma túy. Khi H đang đứng trước nhà nghỉ “G”, chuẩn bị vào nhà nghỉ “G” thuê phòng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang (các bút lục điều tra từ số 42 đến 54).

Lời khai của Trần H phù hợp với Biên bản bắt người phạm, quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được và phù hợp với khai của người chứng kiến là anh B.

Tại Bản kết luận giám định số 12/KLGĐ-PC09-Đ2-MT ngày 24 tháng 12 năm 2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận: Mẫu kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường M - Công an thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá V, T B, Trần H gửi đến giám định, có khối lượng 0,1651 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng tiến hành thu giữ vật chứng gồm:

- 01 gói nylon màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất kết tinh không màu, có khối lượng 0,1651 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358604/04/806798/4.

- 01 xe mô tô biển số 70L1-107.21 màu đỏ đen, số khung:

RRKWCH2UM7XD00913, số máy: VTT37JL1P52FMH00913.

Đối với xe mô tô biển số 70L1-107.21: Bị cáo khai chiếc xe mô tô này là của mẹ bị cáo là bà Nguyễn P. Ngày 17-12-2021, bị cáo mượn xe của bà P đi thì bị Cơ quan chức năng bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bà P khai: Chủ sở hữu xe là anh D. Năm 2018, anh D bán lại chiếc xe này cho bà, chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 17-12-2021, bị cáo mượn xe của bà đi công chuyện thì bị bắt. Anh D khai: Anh mua chiếc xe này năm 2012, sử dụng đến năm 2018 thì anh bán lại xe này cho bà P, anh D không còn quyền lợi gì đối với chiếc xe này.

Toàn bộ số vật chứng trên được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 83/CT-VKSTPVT ngày 05 tháng 4 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố bị cáo Trần H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đối với người thanh niên tên R đã bán ma túy cho Trần H do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ đủ căn cứ xử lý sau.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trần H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong đã qua giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,1651 gam.

+ Đối với 01 điện thoại hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358604/04/806798/4 tại Tòa bị cáo và chứng cứ xác định bị cáo dùng để liên lạc với người thanh niên tên R không rõ lai lịch mua ma túy để sử dụng nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

+ 01 xe mô tô biển số 70L1-107.21 màu đỏ đen, số khung: RRKWCH2UM7XD00913, số máy: VTT37JL1P52FMH00913: Qua xác minh xác định là xe của bà Nguyễn P (mẹ của bị cáo) mua chưa làm thủ tục sang tên. Bị cáo mượn xe của bà P đi thì bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bà P không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị trả xe cho bà P.

- Bị cáo Trần H đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn P: Chiếc xe mô tô biển số 70L1-107.21 là xe của bà mua lại của anh D, chưa làm thủ tục sang tên. Bị cáo H là con trai bà, vào ngày 17-12-2021, H mượn xe bà nói là đi xử lý công việc. Bà không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị lại trả xe cho bà.

Lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại trước nhà nghỉ “G” địa chỉ số đường R, phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố V phối hợp với Công an phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát hiện bắt quả tang Trần H đang tàng trữ trái phép 0,1651 gam chất ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng, đồng thời cơ quan chức năng thu giữ của H: 01 điện thoại hiệu Nokia, màu đen, số Imei 358604/04/806798/4; 01 xe mô tô biển số 70L1-107.21 màu đỏ đen, số khung:

RRKWCH2UM7XD00913, số máy: VTT37JL1P52FMH00913.

Hành vi của bị cáo Trần H đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, xã hội tại địa phương. Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo lần đầu phạm tội nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo nhận thức được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo tốt.

[5] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã qua giám định là tang vật vụ án.

- 01 điện thoại hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358604/04/806798/4: Bị cáo dùng liên lạc với người thanh niên tên R để mua ma túy tàng trữ sử dụng nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 xe mô tô biển số 70L1-107.21 màu đỏ đen, số khung: RRKWCH2UM7XD00913, số máy: VTT37JL1P52FMH00913: Có căn cứ xác định là xe của bà Nguyễn P đã mua chưa làm thủ tục sang tên. Bà P không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại chiếc xe mô tô trên cho bà Nguyễn P.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, không xác định được thu nhập và tài sản của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với người thanh niên tên R đã bán ma túy cho Trần H do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ đủ căn cứ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 12 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy ma túy là 01 gói niêm phong số 12/KLGĐ-PC09-Đ2- MT ngày 24-12-2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358604/04/806798/4.

- Trả lại cho bà Nguyễn P, địa chỉ: đường C, phường D, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu 01 (một) xe mô tô biển số 70L1-107.21 màu đỏ đen, số khung: RRKWCH2UM7XD00913, số máy: VTT37JL1P52FMH00913.

Thực hiện thi hành án theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 150/BB.THA ngày 09-5-2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 126/2022/HS-ST

Số hiệu:126/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về