Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 125/2022/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 12 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2022/HSST ngày 21 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thị Ng D, sinh năm 1992, tại tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: số nhà 46/9, đường N, khu phố 1, phường X, thành phố L, tỉnh Đ; Giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt N; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; con ông Trần Công D, sinh năm 1962 và bà Võ Thu S, sinh năm 1972; Bị cáo có chồng là anh Lâm Hải S, sinh năm 1991 (Đã ly hôn tại bản án dân sự sơ thẩm số 34/2020/HNGĐ-ST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố L); có 03 con là Lâm Hải P, sinh năm 2011; Lâm Hải N, sinh năm 2013 và Lâm Hải N, sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/8/2022 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L cho đến nay. (Bị cáo có mặt)

- Người chứng kiến:

1. Phan Ng Kh, sinh năm 1987 Nơi cư trú: tổ 10, ấp B xã B, thành phố L, tỉnh Đ

2. Nguyễn Lê Q Nh, sinh năm 1996 Nơi cư trú: 135, đường H, khu phố 2, phường X, thành phố L, tỉnh Đ.

(Người chứng kiến vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thị Ng D bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2019, dưới hình thức hút ma túy đá (Methamphetamin). Do là người sử dụng ma túy và qua bạn bè giới thiệu, D quen biết với một người đàn ông tên N ở phường Bàu Sen, thành phố L (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể) là người bán ma túy. D đã mua ma túy của N 2 lần, mỗi lần 200.000 đồng để sử dụng. Khoảng 22 giờ, ngày 05/08/2022 N đến nhà thuê của D ở khu phố 5, phường X, thành phố L và mang theo 01 bịch ma túy đá cùng sử dụng chung với D tại phòng ngủ thứ nhất kế bên phòng khách. Đến 23 giờ cùng ngày N rời khỏi nhà D, số ma túy còn lại chưa sử dụng hết N cho D, D cất giấu trong hộp nhựa, để trong phòng ngủ, mục đích sử dụng dần.

Khoảng 07 giờ ngày 06/08/2022, chị Nguyễn Lê Q Nh, sinh năm 1996, trú tại khu phố 2, phường X, thành phố L, Đ, đến nhà D chơi, dọn dẹp nhà và nấu ăn. Khoảng 12 giờ cùng ngày, anh Phan Ng Kh, sinh năm 1987, trú tại ấp B, xã B T, thành phố L, Đ, đến nhà D giúp sửa chữa Tivi. Khi anh Kh xong việc Nh mang nước lên mời anh Khh uống, và cả 3 cùng ngồi nói chuyện trong phòng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi D, Kh và Nh đang ngồi trong phòng ngủ thứ nhất, Công an thành phố L phối hợp cùng Công an phường Xuân Trung tiến hành kiểm tra hành chính nhà Diễm, phát hiện tại vị trí sau cánh cửa phòng ngủ, sát góc tường có một chai nhựa gắn ống thủy tinh, trên nền nhà trong phòng có một hộp nhựa, bên trong hộp nhựa có một bịch nylon, hàn kín miệng chứa ma túy đá. Công an thành phố L tiến hành thu giữ, lập biên bản niêm phong tang vật theo quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 1692/KL-KTHS ngày 13/8/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,5774 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 bịch nylon hàn kín, bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine, toàn bộ mẫu vật còn lại sau giám định được hoàn lại trong 01 gói niêm phong số 1692/KLGĐ – PC09 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đ.

+ 01 nỏ thủy tinh sử dụng ma túy .

Các vật chứng trên được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự theo đúng quy định pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số: 112/CT-VKSLK ngày 16/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Trần Thị Ng D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

* Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tham gia tranh luận.

* Người chứng kiến vắng mặt nên không có lời trình bày, Hội đồng xét xử công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra.

* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: 12 tháng đến 18 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không - Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong số 1692/KLGĐ – PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đ và 01 nỏ thủy tinh sử dụng ma túy.

* Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, kính xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để về với gia đình lo con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Vào khoảng 14 giờ ngày 06/08/2022, tại nhà thuê ở khu phố 5, phường X, thành phố L, Công an thành phố L phối hợp Công an phường Xuân Trung bắt quả tang Trần Thị Ng D, đang tàng trữ 0,5774 gam ma túy, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng.

Từ đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Thị Ng D phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo như trên là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo:

Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành đã ý thức được những tác hại khi nghiện ma túy mang lại nhưng bị cáo đã không từ bỏ mà có hành vi tàng trữ để có ma túy sử dụng thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà Nước, gây tác hại đến sức khỏe, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội, hơn nữa ma túy còn là tác nhân, tiền đề cho những loại tội phạm khác.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và chưa có tiền án, tiền sự.

Căn cứ vào hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng mức án nghiêm buộc phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về đối tượng có liên quan trong vụ án:

Đối với Nguyễn Lê Qu Nh và Phan Ng Kh không sử dụng ma túy tại nhà của Diễm, không biết việc Diễm cất giấu ma túy nên không có cơ sở xử lý hình sự. Qua test nhanh có dương tính với ma túy nên Công an thành phố L đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng.

Đối với hành vi cho N sử dụng ma túy tại nhà của mình, ngoài lời khai nhận của bị cáo, chưa xác minh, làm việc với người có tên N nên chưa có cơ sở xử lý hình sự. Việc đối tượng tên N, đã bán và cho D ma túy, D không biết họ tên địa chỉ cụ thể, qua xác minh tại địa phương không có người nào tên N như D mô tả, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong số 1692/KLGĐ – PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đ và 01 nỏ thủy tinh sử dụng ma túy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Trần Thị Ngọc Diễm phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Ng D 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/8/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Thị N D để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong số 1692/KLGĐ – PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đ và 01 nỏ thủy tinh sử dụng ma túy. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Đ).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thị Ng D phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 125/2022/HS-ST

Số hiệu:125/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về