Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 09 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 111/2022/TL-ST-HS, ngày 12 tháng 08 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2022/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 09 năm 2022 đối với bị cáo.

- Ly Ha L: Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1985; nơi sinh: Huyện Mường T, tỉnh Lai C; Nơi cư trú: Bản Xà H, xã P, huyện Mường T, tỉnh Lai C; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Đảng, đoàn: Không; Con ông Ly A C (đã chết) và con bà Vàng Xa D (đã chết); Chồng: Giàng Gạ C, sinh năm 1976; Con: có 06 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân chưa bị xử lý; Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 26/04/2022 cho đến ngày 28/04/2022, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã P, huyện Mường T, tỉnh Lai C cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Giàng Ky L, sinh năm 2003 - Trú tại: Bản Xà H, xã P, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Vắng mặt.

- Người làm chứng: Giàng Ky Đ, sinh năm 2005 - Trú tại: Bản Xà H, xã P, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo Ly Ha L: Anh Ly Pó X, sinh năm 2000 - Trú tại: Khu phố 8, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ ngày 26/04/2022, Ly Ha L cùng con trai là Giàng Ky Đ điều khiển xe máy loại Wave RSX , biển kiểm soát 25B1- 711.87 (xe là do Giàng Ky Đ mượn của anh trai là Giàng Ky L) đi đến bản Nậm C, xã Mường T, sau khi mua đồ và ăn uống xong. Ky Đ tiếp tục điều khiển xe máy chở Ha L đi lên bản Pắc M, xã Mường T, khi đi đến đầu bản Pắc M thì dừng xe lại rồi Ha L đi bộ vào bản thì Ha L gặp một người phụ nữ La Hủ lạ mặt, qua trao đổi, Ha L đã mua được của người phụ nữ này 03 (ba) gói heroine, đều được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng và gói chung trong một túi nilon màu trắng với giá 500.000 đồng, sau đó Ha L cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ quay ra chỗ Ky Đ dừng xe đứng đợi, sau đó Ky Đ tiếp tục điều khiển xe máy đi về nhà. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày khi Ha L và Ky Đ đi đến bản Mu C, xã P thì bị tổ công tác Đồn biên phòng P phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 03 (ba) gói heroine tại túi quần của Ha L.

Tại kết luận giám định tư pháp số 42/KLGĐ, ngày 26/04/2022 của người giám định tư pháp thuộc Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C kết luận: Tổng khối lượng 03 gói vật chứng thu giữ của Ly Ha L là 1,32 gam.

Tại kết luận giám định số: 358/GĐ-KTHS ngày 27/04/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 03 (ba) mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu mẫu 01, mẫu 02, mẫu 03) thu giữ của Ly Ha L gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 68/CT-VKS-MT ngày 12 tháng 08 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố Ly Ha L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý:

- Trách nhiệm hình sự: Đối với Ly Ha L về tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt chính: Áp dụng Điều 38; Điều 50; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ly Ha L từ: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do điều kiện của bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 03 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh nilon màu trắng dùng để gói các gói Heroine là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Ha L.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Do gia đình và bản thân bị cáo là hộ nghèo của xã P. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, cho bị cáo.

Tại phiên tòa người làm chứng thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là hoàn toàn đúng sự thật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa việc bị cáo khai báo là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm cung, ép cung, bị cáo không khiếu nại gì về quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Sau khi tranh luận Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên mức hình phạt chính như đã đề nghị. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 10 giờ 30 phút ngày 26/04/2022 tại địa phận bản Mu C, xã P, huyện Mường T, tỉnh Lai C. Ly Ha L đang có hành vi tàng trự trái phép 03 (ba) gói Heroine có tổng khối lượng là 1,32 gam mục đích là để sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Đồn biên phòng P, huyện Mường T phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Bị cáo Ly Ha L luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần được xem xét áp dụng cho bị cáo. Bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, gia đình thuộc hộ nghèo, sinh sống ở xã P là xã biên giới có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân bị cáo Ly Ha L có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ không được đi học, lớn lên tham gia lao động sản xuất tại địa phương, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo nhận thức rõ được hành vi tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân nên đã cố ý phạm tội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngưi phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, xét thấy: Bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, nghề nghiệp trồng trọt, thu nhập thấp, là người thường xuyên sử dụng chất ma túy, gia đình khó khăn là hộ nghèo của xã P. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 03 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh nilon màu trắng, là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Ha L.

- Đối với chiếc xe máy loại Wave RSX , biển kiểm soát 25B1-711.87, nhãn hiệu Hond màu sơn đỏ, đen không gắn biển kiểm soát. Số khung RLHJA3851LY039592, số máy JA52E-0174726. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của Giàng Ky L. Việc bị cáo mượn và sử dụng chiếc xe máy trên để thực hiện hành vi phạm tội thì anh Giàng Ky L không biết. Ngày 16/07/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe máy trên cho anh Giàng Ky L. Việc xử lý vật chứng trên là phù hợp và đúng quy định của pháp luật. Anh Ky L đã nhận lại được tài sản, không có ý kiến gì. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8]. Về án phí: Xét thấy, bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, nghề nghiệp trồng trọt, thu nhập thấp, gia đình khó khăn là hộ nghèo của xã P là xã biên giới có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, cho bị cáo.

[9]. Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận: Bị cáo Ly Ha L đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; do vậy ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đối với bị cáo là có cơ sở đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10]. Đối với người phụ nữ La Hủ lạ mặt đã bán Heroine với giá 500.000 đồng cho bị cáo Ly Ha L. Trong qúa trình điều tra không xác định được lai lịch của người phụ nữ này nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11]. Đối với Giàng Ky Đ là người đi cùng bị cáo, nhưng Ky Đ không biết việc Ha L mua và tàng trữ trái phép chất ma túy nên không phạm tội. Đối với Giàng Ky L, là người cho Ky Đ mượn xe máy, anh Ky L không biết việc Ha L dùng xe máy của mình vào việc phạm tội nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo: Ly Ha L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ly Ha L: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Được khấu trừ 02 (hai) ngày tạm giữ kể từ ngày 26/04/2022 đến ngày 28/04/2022. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Không áp dụng đối với bị cáo Ly Ha L.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 03 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh nilon màu trắng là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Ha L.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Ly Ha L.

- Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2022/HS-ST

Số hiệu:124/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về