TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 124/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 118/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 156/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Minh C; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 4 năm 2003 tại xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Xóm Trường An, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Minh N, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01 tháng 10 năm 2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 01 tháng 10 năm 2021, Nguyễn Minh C điều khiển xe mô tô mượn của chị gái đi xuống khu vực ngã ba thuộc xóm T, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An để mua ma túy. Tại đây C gặp mua của một người đàn ông tên Tuấn (Không rõ nhân thân, lý lịch cụ thể) 01 (Một) túi nilon màu trắng bên trong chứa chất ma túy với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được ma túy bị cáo đi về khu vực đường Quốc lộ 48E thuộc địa bàn xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An thì bị Công an huyện Nghi L phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần bò bên phải mà C đang mặc gói ma túy vừa mua được.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 02/11/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Nghệ An xác định: 01 (Một) gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của C có khối lượng 0,34g (Không phẩy, ba mươi tư gam) và lấy toàn bộ gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 1373/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 07/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Minh C gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,34 g (Không phẩy, ba mươi tư gam).
Bản cáo trạng số 115/CT-VKS-NL ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh C về tội:
"Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả của vụ án, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh C phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 tháng 15 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: 0,34 gam (Methamphetamine) đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên đề nghị không xem xét. Căn cứ: điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành, được dán kín các mép bên trong có chứa 01 (Một) gói nilon, màu trắng, hình chữ nhật và 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành đã mở niêm phong.
Bị cáo đồng ý với ý kiến trình bày luận tội của Kiểm sát viên và không tranh luận đối đáp gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình và rất ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt:
Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như kết luận điều tra và nội dung bản cáo trạng truy tố, ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, phù hợp vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án...được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 18 giờ 45 phút, ngày 01 tháng 10 năm 2021, tại khu vực đường Quốc lộ 48E thuộc địa bàn xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, bị cáo Nguyễn Minh C đang tàng trữ ở túi quần bên phải bị cáo đang mặc 0,34g (Không phẩy, ba mươi tư gam) chất ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện và bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội:
Hành vi phạm tội của bị cáo là thuộc tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước, đồng thời loại tội này đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, gây nhức nhối cho xã hội và trở thành nỗi lo của nhiều gia đình. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực Kinh tế, Văn hóa, Xã hội, An ninh-Quốc phòng, làm tổn hại sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do ăn chơi, đua đòi, bị cáo đã mắc vào tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là điều cần thiết để bị cáo nhận thức được sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có ý thức chấp hành pháp luật.
[5]. Về hình phạt bổ sung:Theo quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, là người nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng:
- Thu giữ gồm: 0,34g (Không phẩy, ba mươi tư gam) chất ma túy (Methamphetamine), đã lấy toàn bộ 0,34 gam gửi đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Thu giữ 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành, được dán kín các mép bên trong có chứa 01 (Một) gói nilon, màu trắng, hình chữ nhật và 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành đã mở niêm phong. Xác đinh đây là vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- Thu giữ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Hoada SH125i màu đỏ đen, Biển kiểm soát 37K1-867.01, số máy JF73E0071070, số khung 7308GY070994 đã qua sử dụng do bị cáo mượn của chị gái là Nguyễn Thị Tú A. Quá trình điều tra xác định khi chị A cho bị cáo mượn chiếc xe trên nhưng do chị A không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho chị A là đúng quy định.
[7]. Các vấn đề khác:
Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho bị cáo, kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch cụ thể nên không có căn cứ xử lý.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 01 tháng 10 năm 2021.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành, được dán kín các mép bên trong có chứa 01 (Một) gói nilon, màu trắng, hình chữ nhật và 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện N, tỉnh Nghệ An ban hành đã mở niêm phong (Hiện vật chứng đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Nghệ An).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm 5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2021/HS-ST
Số hiệu: | 124/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về