TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 124/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2021/TLST-HS ngày 01/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2021/QĐXXST-HS ngày 25/10/2021 đối với bị cáo:
LÊ XUÂN T - sinh năm 1964 tại xã T, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Nơi cư trú: khu b, xã T, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 5/12;
Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Lê Xuân T (đã chết) và bà Phạm Thị Tr (đã chết);
Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị X - sinh năm 1965 và 02 con lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
- Năm 1996 bị Tòa án nhân dân huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo thi hành xong hình phạt chính năm 1997;
- Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo thi hành phạt chính ngày 21/12/2013, chấp hành xong án phí ngày 20/03/2012.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/8/2021. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Phú Thọ, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 10 giờ ngày 16/8/2021, tại tổ 13, khu 4, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Công an phường Vân Cơ tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Xuân T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy măt ngoài và mặt trong màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng bột cục màu trắng (T khai là ma túy Heroine tàng trữ nhằm mục đích sử dụng). Sau khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, Công an phường Vân Cơ đã chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Việt Trì để điều tra theo thẩm quyền. Tại trụ sở Công an thành phố Việt Trì, qua kiểm tra nước tiểu, Cơ quan điều tra xác định T dương tính với ma túy Heroine.
Ngày 16/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Phú Thọ đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với chất bột, cục màu trắng chứa trong gói giấy mặt ngoài và mặt trong màu trắng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Lê Xuân T. Tại bản Kết luận giám định số 976/KLGĐ ngày 19/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:
“Mẫu chất bột, cục màu trắng chứa bên trong 01 gói giấy gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,184 gam,”.
*Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ;
Hoàn lại đối tượng giám định: 0,107 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định, được niêm phong.
Tại cơ quan điều tra, T khai nhận về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ khi bị bắt quả tang: Do bản thân có nhu cầu sử dụng chất ma túy, khoảng 08 giờ ngày 16/8/2021, T một mình đi bộ từ nhà đến khu vực xã Bình Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ để tìm mua ma túy Heroine. Tại đây, T đã nói chuyện và quen một người nam giới tên Hòa ( T không biết tuổi, địa chỉ cụ thể), cũng là người sử dụng ma túy như T, do đó cả hai rủ nhau đi đến thành phố Việt Trì để tìm mua ma túy sử dụng. Người nam giới tên Hòa điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xanh (T không nhớ biển kiểm soát) chở T đến khu vực gần cửa hàng xăng dầu thuộc khu 4, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì. Do T ngồi sau nên T không nhớ Hòa đi đường nào từ huyện Phù Ninh đến thành phố Việt Trì. Khi đến nơi, T xuống xe, đưa cho người nam giới tên Hòa số tiền 100.000đ và đứng chờ người nam giới này đi tìm mua ma túy. Một lúc sau, Hòa quay lại và đưa cho T 01 gói ma túy có đặc điểm là 01 gói giấy măt ngoài và mặt trong màu trắng, bên trong chứa ma túy Heroine rồi đi đâu, làm gì T không biết. T cầm gói ma túy đi tìm nơi sử dụng, chư a kịp sử dụng thì bị Công an phường Vân Cơ kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Đối với vật chứng bị thu giữ T: Còn 0,107 gam chất bột, cục màu trắng là ma túy Heroin do phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả sau giám định, Công an thành phố Việt Trì chuyển đến Chi cục thi hành án thành phố Việt Trì.
Về điều kiện kinh tế của bị cáo: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác minh, xác định bị cáo T và vợ, con đang sống trong ngôi nhà cấp 4, diện tích 130 m2 được xây trên thửa đất số 63, tờ bản đồ số 22, diện tích 1900 m2, trong đó 300 m2 đất ở, 1600 m2 đất trông cây lâu năm tại khu 7, xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Thửa đất này đứng tên bị cáo và vợ, bị cáo không có tài sản riêng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại Cáo trạng số: 125/CT-VKSVT ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã quyết định truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX:
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm x, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo T 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/8/2021. Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số: 976/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả mẫu vật sau giám định.
3. Về án phí: Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tham gia tranh luận đối với bản luận tội và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát; Bị cáo nói nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa, trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về những căn cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 16/8/2021, tại tổ 13, khu 4, phường Vân Cơ, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, T đã có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,184 gam chất ma túy loại Heroine với mục đích sử dụng. Hành vi của T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
“Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái pháp chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm….a…b… c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương thuộc trường hợp nghiêm trọng, nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng chung và phòng ngừa riêng.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình:
Bị cáo có nhân thân xấu 02 lần bị Tòa án xét xử về cùng loại tội liên quan đến ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân đến nay lại tiếp tục phạm tội; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là “Người phạm tội là con của Liệt sĩ”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và mẹ bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, nên khi lượng hình cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Quá trình điều tra xác minh, bị cáo T ngoài tài sản chung của gia đình là đất và nhà, bị cáo không có tài sản gì khác có giá trị. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo [6]. Về xử lý vật chứng: Xét thấy các vật chứng được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì gồm 01 phong bì niêm phong bên trong có 0,107 gam ma túy còn lại sau khi giám định, đây là vật nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Các vấn đề khác: Đối với người nam giới tên Hòa đã có hành vi cùng đi mua trái phép chất ma túy T trong ngày 16/8/2021, do T không biết tuổi, địa chỉ và biển số xe mô tô của người này đã điều khiển nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ để xử lý là phù hợp.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì tại phiên tòa là phù hợp, nhưng cần giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm x, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
Xử phạt bị cáo Lê Xuân T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 8 năm 2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo Lê Xuân T.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 bì niêm phong số:
976/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả lại mẫu vật sau giám định bên trong có 0,107 gam chất bộc, cục màu trắng.
(Theo Biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì ngày 28/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ)
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 124/2021/HS-ST
Số hiệu: | 124/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về