Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 122/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 122/2021/HSST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 124/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn T; Tên gọi khác: Không;

Sinh năm:1963, tại tỉnh B;

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 03, phường T, thành phố Đ, tỉnh B.

Chỗ ở trước khi bị bắt: Số nhà 455, tổ dân phố 14, phường H, thành phố Đ, tỉnh B Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không;

Trình độ văn hóa: 09/10 phổ thông; Con ông: Nguyễn Văn C (Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị H (Còn sống); Vợ: Phạm Thị N (Đã ly hôn); Bị cáo có 02 con; Tiền án: Không, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 25/5/1999, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh L (Nay là tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B) xử phạt 48 tháng tù về 02 tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng hình phạt bổ sung 20.000.000đ, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, năm 2006 bị UBND tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn là 24 tháng. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2021, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị N; Địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường H, thành phố Đ, tỉnh B (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 12/4/2021, tổ công tác công an phường H phối hợp với công an phường M, thành phố Đ đang làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư gần trường trung học phổ thông thành phố Đ thuộc tổ 09, phường M, thành phố Đ thì phát hiện Nguyễn T có nghi vấn phạm tội về ma túy, khi T đang điều khiển xe mô tô BKS 27F5- 3807 theo hướng từ phường N lên trung tâm thành phố Đ. Tổ công tác dừng xe yêu cầu kiểm tra, Tuyên tự giác khai nhận và giao nộp 04 viên hồng phiến được gói ngoài bằng 02 lớp nilon màu xanh, cất giấu ở trong tất chân bên phải.

Bị cáo khai: 04 viên hồng phiến bên trong gói nilon màu xanh là ma túy, mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực ven đường thuộc bản Xôm, xã T, huyện B hết 120.000 đồng, đang trên đường mang về để bản thân sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 12/4/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 412/GĐ-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,4 gam;

Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKS-TPĐBP ngày 24/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo T từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 0,3 gam Methamphetamine (Vật chứng còn lại sau giám định), 02 mảnh nilon màu xanh. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không bổ sung thêm lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 12 giờ ngày 12/4/2021, tại khu vực tổ 09, phường M, thành phố Đ, Phạm T đã có hành vi cất giấu trên người 0,4 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 00 phút ngày 12/4/2021, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 12/4/2021, kết luận giám định số 412/GĐ-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người có thành tích xuất sắc trong công tác, thời gian tại ngũ được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen, bố mẹ đẻ của bị cáo là người có công với cách mạng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 25/5/1999, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh L (Nay là tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B) xử phạt 48 tháng tù về 02 tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng hình phạt bổ sung 20.000.000đ, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, năm 2006 bị UBND tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn là 24 tháng, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, với khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ là 0,4 gam Methamphetamine và các tình tiết giảm nhẹ cũng như đặc điểm nhân thân của bị cáo, thì mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có nghề nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông dân tộc thái, tại bản Xôm, xã T, huyện B, nhưng không biết họ, tên, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Dream, biển kiểm soát: 27F5 - 3087, xe đã qua sử dụng, kèm đăng ký xe mang tên Phạm Thị N. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu xe là bà Phạm Thị N; Địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường H, thành phố Đ, tỉnh B, khi cho bị cáo mượn xe, bà N không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho bà N. Xét việc trao trả này của Cơ quan điều tra là có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Vật chứng: 0,3 gam Methamphetamine (Vật chứng còn lại sau giám định), là vật nhà nước cấm tàng trữ, 02 mảnh nilon màu xanh không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Nguyễn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (12/4/2021).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,3 gam Methamphetamine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 02 mảnh nilon màu xanh, (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B) .

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 122/2021/HSST

Số hiệu:122/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về