Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 12/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-HS ngày 23-02- 2024 đối với bị cáo.

Trương Minh T (tên gọi khác: C), sinh năm 1995 tại tỉnh Đắk Nông; nơi thường trú: Thôn 8, xã A, huyện B, tỉnh Đắk Nông; nơi ở hiện tại: Thôn 5, xã A, huyện B, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12;

dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Quang V và bà Lê Thị P; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Phước T1, sinh năm 2000 và có 01 con sinh năm 2021; tiền án: Không; tiền sự: 01. Cụ thể: Quyết định số: 20/2023/QĐ-TA ngày 28/09/2023 Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Bị cáo chưa chấp hành; Nhân thân: Bản án số: 45/2016/HS-ST ngày 28/07/2016 Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xử phạt Trương Minh T 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 và 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Tổng hợp hình phạt Trương Minh T phải chấp hành hình phạt chung 02 năm tù. Trương Minh T đã chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của bản án, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/11/2023 sau đó chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk R’Lấp. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 13/11/2023, nhằm thỏa mãn cơn nghiện nên Trương Minh T đi vào khu vực ngã ba Làng mông thuộc xã D, huyện E, tỉnh Đắk Nông để tìm mua ma túy. Tại đây, T đã mua từ một nam thanh niên (không rõ nhân lai lịch) 200.000 đồng ma túy Heroin được gói trong 01 tờ giấy bạc và 200.000 đồng ma túy đá đựng trong 01 đoạn ống hút nhựa trong suốt, có sọc màu cam - trắng, được hàn kín hai đầu. Sau khi mua được ma túy, trên đường về huyện B, T ghé vào một rẫy cà phê ven đường, thuộc địa phận xã D, huyện E để sử dụng ma túy. T lấy ma túy loại Heroin và lấy bơm kim tiêm, nước cất đã chuẩn bị trước, đổ hết khối lượng ma túy Heroin vào bơm kim tiêm. T tiếp tục lấy một ít ma túy đá trong đoạn ống hút nhựa trên bỏ vào trong bơm kim tiêm, pha trộn hai loại ma túy với nhau, sau đó sử dụng bằng cách tiêm trực tiếp ma túy vào trong cơ thể. Sử dụng ma túy xong, T vứt bơm kim tiêm lại vị trí sử dụng, rồi dùng bật lửa gas hàn kín đoạn ống hút bên trong chứa lượng ma túy đá còn lại. Sau đó, T nhặt được 01 chiếc hộp nhựa màu hồng, trên nắp hộp có hoa văn màu vàng, nên T bỏ đoạn ống hút chứa ma túy đá trên vào trong hộp nhựa, đóng nắp hộp lại, rồi bỏ hộp nhựa màu hồng vào túi quần phía trước bên phải của chiếc quần dài màu đen mà T đang mặc và đi về nhà tại Thôn 5, xã A, huyện B, tỉnh Đắk Nông.

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 14/11/2023, T mặc chiếc quần trên, bên trong túi quần phía trước bên phải vẫn còn cất giấu ma túy đá, đi từ nhà T lên thị trấn G, khi T đi đến đoạn đường Lê Hữu T2 thuộc Tổ dân phố 01, thị trấn G, huyện B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’Lấp phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T tại thôn 5, xã A, huyện B, tỉnh Đắk Nông không thu giữ được tài liệu, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy ngày 11/09/2023 của Trung tâm y tế huyện B xác định Trương Minh T có nghiện ma túy là Heroin.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’Lấp đã thu giữ của Trương Minh T gồm: 01 (một) đoạn ống hút nhựa trong suốt, có sọc màu cam - trắng, được hàn kín hai đầu, kích thước (02 x 01)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) một hộp nhựa màu hồng, trên nắp hộp có hoa văn màu vàng.

Tại bản kết luận giám định số: 434/KL-KTHS ngày 16/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) đoạn ống hút bằng nhựa, có sọc màu cam - trắng có kích thước (02 x 01)cm, hai đầu được hàn kín, dạng hàn bằng nhiệt, được niêm phong trong bì thư có ghi chữ “MẪU VẬT” gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng mẫu là 0,2039 gam. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong bì thư có ghi “MẪU VẬT” hoàn lại Cơ quan trưng cầu giám định có khối lượng mẫu là 0,1931 gam.

Cáo trạng số: 11/CT-VKS-ĐL ngày ngày 30-01-2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp truy tố bị cáo Trương Minh T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng và thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan và không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Kết quả tranh luận tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và khẳng định quyết định truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14-11- 2023.

Hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1931 gam chất ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định); 01 (một) đoạn ống hút nhựa trong suốt, có sọc màu cam - trắng, được hàn kín hai đầu, kích thước (02 x 01)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) một hộp nhựa màu hồng, trên nắp hộp có hoa văn màu vàng là vật chứng vụ án.

Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, nội dung bản Cáo trạng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 14/11/2023, tại Tổ dân phố 01, thị trấn G, huyện B, tỉnh Đắk Nông, Trương Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2039 gam chất ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…” [3]. Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đem lại những hậu quả rất nghiêm trọng, bị pháp luật nghiêm cấm và xã hội lên án. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã một thời gian dài thì mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt: Trương Minh T tàng trữ trái phép ma tuý để sử dụng có khối lượng 0,2039 gam là Methamphetamine nên phải chịu áp dụng tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Tại Bản án số: 45/2016/HS-ST ngày 28/07/2016 Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xử phạt Trương Minh T 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 và 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Tổng hợp hình phạt Trương Minh T phải chấp hành hình phạt chung 02 năm tù. Trương Minh T đã chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của bản án, đã được xóa án tích. Tại Quyết định số: 20/2023/QĐ-TA ngày 28/09/2023 Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Bị cáo chưa chấp hành. Do đó, bị cáo là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

HĐXX cần xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm một phần hình phạt cho vị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với 0,1931 gam chất ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định); 01 (một) đoạn ống hút nhựa trong suốt, có sọc màu cam - trắng, được hàn kín hai đầu, kích thước (02 x 01)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) một hộp nhựa màu hồng, trên nắp hộp có hoa văn màu vàng đã hết giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

[8]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[9]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trương Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Trương Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14-11-2023.

2. Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1931 gam chất ma túy là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định); 01 (một) đoạn ống hút nhựa trong suốt, có sọc màu cam - trắng, được hàn kín hai đầu, kích thước (02 x 01)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) hộp nhựa màu hồng, trên nắp hộp có hoa văn màu vàng là vật chứng vụ án. (Vật chứng có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07-02-2024).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 12/2024/HS-ST

Số hiệu:12/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về