Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 215/2023/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1990 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Nơi ở: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Lê Thị Lệ X; có vợ là Nguyễn Thị Minh B (đã ly hôn) và có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 14/10/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD S (viết tắt là Công ty HD S).

Địa chỉ: Lầu 8, 9, 10 Tòa nhà G, số 24C P, phường X, Quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu N – Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền của ông N: Ông Phạm Gia H – Trưởng phòng thu hồi nợ gián tiếp của Công ty (theo Giấy ủy quyền số 210801-LCO ngày 01/8/2021).

Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Khu phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (Giấy ủy quyền số 231120-11-CCO ngày 20/11/2023) (có mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Mai S, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Tổ 6, phường T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Nơi ở: Khu phố 4, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy (đá) nên vào khoảng 07 giờ ngày 14/10/2023 Nguyễn Trung Đ dùng Zalo tài khoản “Đ Nguyễn” (đăng ký từ số điện thoại X1944X) đăng nhập bằng điện thoại di động OPPO màu đen gọi vào tài khoản Zalo “Tr Lê” (không biết số điện thoại đăng ký) của một người bạn ngoài xã hội tên Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 1.500.000 đồng ma túy (đá). Tr đồng ý bán và hẹn Đ đến khu vực trước nhà nghỉ H, thuộc khu phố 3, phường Đài S để mua bán ma túy. Đến khoảng 10 giờ 10 phút, Đ điều khiển xe mô tô biển số 85C1 - X đi đến thôn Long Bình, xã An Hải, huyện Ninh Phước, để rủ Nguyễn Mai S đi chơi thì S đồng ý. Sau đó, Đ chở S đến khu vực trước nhà nghỉ H, tại đây Tr bán cho Đ 01 bịch nylon màu trắng dạng miệng khép dính, viền miệng màu đỏ, bên ngoài quấn băng keo màu đen, bên trong chứa ma túy (ký hiệu M) và Đ trả cho Tr 1.500.000 đồng. Đ cầm ma túy trong lòng bàn tay phải, rồi điều khiển xe mô tô chở S đi về. Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực trước quán nhậu G vườn thuộc khu phố 3, phường Đài S, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, thì bị lực lượng Công an kiểm tra Đ đã ném bịch ma túy đang cầm xuống mặt đất phía sau xe mô tô, gần bờ rào, cách khoảng 03m thì bị lực lượng Công an phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại Cơ quan điều tra, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản Kết luận giám định số 226/KL-KTHS ngày 18/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, kết luận: Chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là: 2,7730g.

Hoàn trả mẫu vật còn lại sau giám định: M có khối lượng: 2,2823g, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

* Vật chứng trong vụ án:

+ Số tiền 600.000 đồng; 01 ví da màu nâu; 01 giấy đăng ký xe mô tô hiệu honda, biển kiểm soát 85C1- X mang tên Nguyễn Văn Th;

+ 01 thẻ ngân hàng Sacombank mang tên NGUYEN THI MINH B.

+ 01 gói niêm phong bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 2,2823 gam ma túy loại Methamphetamine, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, gắn sim số X1944X là điện thoại Đ dùng để liên lạc mua ma túy.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 85C1 – X cùng giấy đăng ký xe của Đ, dùng làm phương tiện phạm tội.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKSPRTC ngày 12 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

- Ông Nguyễn Quang T là Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty HD S trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Đ phải trả cho Công ty HD S số tiền tính đến ngày 25/01/2024 là 15.920.469 đồng. Giao cho Công ty HD S nhận lại xe mô tô để xử lý tài sản bảo đảm. Hoặc giao xe cho Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản, ưu tiên thanh toán khoản nợ của ông Đ cho Công ty HD S, nếu dư nộp sung Ngân sách nhà nước.

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung Đ từ 24 (hai mươi bốn) tháng tù đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong có 2,2823g chất ma túy, loại Methamphetamine, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định là mẫu vật còn lại sau giám định.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, gắn sim số X1944X là điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 85C1 – X cùng giấy đăng ký xe của bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy.

Bị cáo không tranh luận.

Ông T không trình bày tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 14/10/2023, tại khu vực trước quán nhậu G vườn, thuộc khu phố 3, phường Đài S, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, bị cáo Nguyễn Trung Đ đã bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 2,7730 gam chất ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo đã vi phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên phải xử lý nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình mức án phù hợp cho bị cáo.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lê Thị Lệ Xuyên là mẹ bị cáo có nộp đơn xác nhận hoàn cảnh của bà Xuyên khó khăn để xem xét xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, đây không không phải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 600.000 đồng; 01 ví da màu nâu; 01 giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda, biển số 85C1- X mang tên Nguyễn Văn Th không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo là có căn cứ.

- Đối với 01 thẻ ngân hàng Sacombank mang tên NGUYEN THI MINH B không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị B là có căn cứ.

- Đối với 01 gói niêm phong bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 2,2823 gam ma túy loại Methamphetamine, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định đây là ma túy còn lại sau giám định nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy là có căn cứ.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, gắn sim số X1944X, là điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên Hội đồng xét xử tịch thu sung ngân sách nhà nước là có căn cứ.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda, loại wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 85C1-X cùng giấy đăng ký xe của bị cáo dùng làm phương tiện để đi mua ma túy nên Hội đồng xét xử tịch thu sung ngân sách nhà nước là có căn cứ.

[6] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông Nguyễn Quang T là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty HD S đề nghị Tòa án buộc bị cáo trả cho Công ty HD S số tiền tính đến ngày 25/01/2024 là 15.920.469 đồng. Giao cho Công ty HD S được nhận xe mô tô biển số 85C1-X để xử lý tài sản bảo đảm. Hoặc giao xe cho Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản, ưu tiên thanh toán khoản nợ của bị cáo cho Công ty HD S, nếu dư nộp sung Ngân sách nhà nước. Xét yêu cầu của Công ty HD S thấy rằng:

Xe mô tô hiệu Honda, biển số 85C1 – X thuộc quyền sở hữu của bị cáo Đ. Ngày 15/12/2022, bị cáo Đ ký Hợp đồng cấp tín dụng số 2W025833983 với Công ty HD SAISON vay số tiền 16.000.000 đồng để mua xe mô tô trên và trả góp trong vòng 09 tháng, tiền góp mỗi tháng là 2.091.427 đồng. Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, hai bên ký kết Hợp đồng thế chấp số 2W025833983 ngày 15/12/2022. Đến nay, bị cáo đã trả cho Công ty số tiền 4.231.312 đồng, bị cáo Đ còn nợ Công ty HD S số tiền 15.920.469 đồng. Công ty HD S yêu cầu bị cáo Đ phải trả số tiền trên. Bị cáo Đ đồng ý trả cho Công ty HD S số tiền 15.920.469 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận. Xét thấy, sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận.

Đối với yêu cầu giao cho Công ty HD S được nhận xe mô tô biển số 85C1 – X để xử lý tài sản bảo đảm. Hoặc giao xe cho Cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản, ưu tiên thanh toán khoản nợ của bị cáo cho Công ty HD S, nếu dư nộp sung Ngân sách nhà nước thì không có căn cứ chấp nhận vì: Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”. Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”. Như vậy, bị cáo Đ sử dụng xe mô tô biển số 85C1 – X là tài sản đang thế chấp tại Công ty HD S vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Đối với Nguyễn Mai S không biết việc bị cáo Đ mua và tàng trữ trái phép chất ma túy và cũng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý hình sự đối với S là có căn cứ.

Đối với nam thanh niên tên “Tr” là người đã bán ma túy cho Nguyễn Trung Đ, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, để xử lý theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trung Đ 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 14/10/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 2,2823 gam ma túy loại Methamphetamine, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, gắn sim số X1944X đã qua sử dụng.

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 85C1 – X số khung RLHJA3851NY150825, số máy JA52E0480455 đã qua sử dụng;

01 giấy đăng ký xe máy số 85 000487, hiệu Honda, loại wave RSX, biển số 85C1 – X mang tên Nguyễn Trung Đ.

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/12/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm).

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ quy định tại Điều 46; Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Trung Đ và người đại diện theo ủy quyền lại của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Quang T về việc: Bị cáo Nguyễn Trung Đ trả cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HD SAISON số tiền 15.920.469 đồng (mười lăm triệu chín trăm hai mươi nghìn bốn trăm sáu mươi chín đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Trung Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/01/2024); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2024/HS-ST

Số hiệu:12/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về