Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03.1/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST-QĐ ngày 23 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang P; sinh năm: 1977 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Vùng N, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nơi ở: /(không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn N (chết) và bà: Lê Thị N; tiền án: 06 (ngày 14/3/1996 bị Tòa án nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” tại Bản án số 56/HS-ST, ngày 27/12/1997 bị Tòa án nhân dân Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” tại Bản án số 188/HSST, ngày 04/12/2000 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại Bản án số 482/HSPT, ngày 12/01/2005 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 57/2005/HSST, ngày 19/6/2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 328/2012/HSPT, ngày 04/01/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Che dấu tội phạm” theo Bản án số 04/2018/HS- ST; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 20/8/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 122/QĐ-CSCNBB-TA; bị bắt giữ ngày: 02/5/2021.

(Bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Thạch Minh K – Sinh năm: 1998 (vắng mặt). Địa chỉ: thôn S, xã Đ, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 02 giờ 45 phút ngày 02/5/2021, tại trước nhà số 650 đường Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10, Tổ tuần tra hình sự đặc nhiệm - Công an Quận 3 phát hiện Nguyễn Quang P có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính; qua kiểm tra thu giữ: 01 bao thuốc lá Jet để trong túi quần bên phải, phía trước của P (bên trong bao thuốc lá có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu); P khai nhận số tinh thể không màu bị thu giữ là ma túy tổng hợp. Vụ việc được chuyển giao cho Công an Phường 11, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại bản Kết luận giám định số: 2933/KLGĐ-H ngày 10/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 3,0600g, loại Methamphetamine.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 02/05/2021 của Trung tâm Y tế Quận 10 đối với Nguyễn Quang P là dương tính với ma túy.

Quá trình điều tra, xác định: số ma túy trên P mua của một phụ nữ tên Nga (không rõ lai lịch) tại khu vực đường Đề Thám Quận 1 với giá 1 triệu đồng vào lúc 18 giờ ngày 01/5/2021, mục đích để sử dụng cho bản thân; sau đó bị kiểm tra và bắt giữ như trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Nguyễn Quang P về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Đối với đối tượng phụ nữ tên Nga, chưa xác định được lai lịch; cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, làm rõ, xử lý sau.

Vể vật chứng:

Đối với 01 vật chứng đã được niêm phong, bên trong chứa 2,8726g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Hữu Hoa, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số thuê bao 0933640887 là tài sản của Nguyễn Quang P, không liên quan đến hành vi phạm tội; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Đối với 01 xe mô tô biển số 84M1- 03602, qua xác minh do ông Thạch Minh K là chủ sở hữu. Ngày 01/5/2020, ông Khải cho P mượn xe để sử dụng, ông Khải không biết P sử dụng xe để đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã giao trả lại chiếc xe trên cho ông Khải.

Tại Cáo trạng số 05/CT-VKSQ10 ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Nguyễn Quang P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo Nguyễn Quang P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (thành khẩn khai báo) và nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo:

Nguyễn Quang P: Từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về vật chứng và các biện pháp tư pháp: Đề nghị xử lý theo đúng quy định pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, qua lời khai nhận tội của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Quang P thực hiện hành vi cất giữ trái phép: 3,0600g, loại Methamphetamine , nhằm mục đích để sử dụng; chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định số: 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn; ngoài ra, bản thân bị cáo có quá trình nhân thân xấu: Ngày 14/3/1996 bị Tòa án nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” tại Bản án số 56/HS-ST, ngày 27/12/1997 bị Tòa án nhân dân Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” tại Bản án số 188/HSST, ngày 04/12/2000 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” tại Bản án số 482/HSPT, ngày 12/01/2005 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 57/2005/HSST, ngày 19/6/2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 328/2012/HSPT, ngày 04/01/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Che dấu tội phạm” theo Bản án số 04/2018/HS-ST, như vậy bị cáo đã bị kết án thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, nhưng chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội cố ý. Do vậy, bị cáo Nguyễn Quang P bị truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”; nhưng bị cáo đã đi ngược lại mục tiêu chung trên. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa P. Ngoài ra, áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Đối với: 01 gói vật chứng đã được niêm phong, bên trong chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Hữu Hoa (mẫu vật hoàn lại sau giám định), là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số thuê bao: 0933640887, số Imei: 353420091086945), quá trình điều tra xác định không phải là P tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy căn cứ vào Điều 128 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, kê biên lại để đảm bảo cho việc thi hành án đối với bị cáo P.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 53; điểm o khoản 2, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Quang P;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang P 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/5/2021.

Phạt bổ sung bị cáo P 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói vật chứng đã được niêm phong, bên trong chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Bùi Hữu Hoa (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.

- Căn cứ Điều 128 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; kê biên lại giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10 tạm giữ để đảm bảo việc thi hành đối với bị cáo Nguyễn Quang P, cụ thể kê biên: 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số thuê bao: 0933640887, số Imei: 353420091086945).

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/01/2022 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về