TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 121/2021/HSST NGÀY 17/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 8 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2021/TLST-HS ngày 21/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2021/QĐXXST- HS ngày 05/8/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Cầm Văn Đ - Sinh ngày 17/3/1990; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản C, xã C, huyện S, Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 7/12; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Cầm Văn P, con bà Lường Thị T; Vợ Đèo Thị B và 02 con (con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ, giam từ ngày 11/5/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 02 giờ 00 phút ngày 11/5/2021 tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Chiềng Xôm, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã phát hiện một nam thanh niên đang ngồi ở ngã ba có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra hành chính, nam thanh niên khai nhận tên là Cầm Văn Đ. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi quần của Đ có 01 gói nilon màu trắng chứa 01 viên nén màu hồng và 01 gói nilon màu đen chứa chất bột màu trắng (Đ khai nhận là Hồng phiến và Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.
Ngày 12/5/2021 tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, Hội đồng bóc mở niêm phong tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: 01 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,08 gam; chất bột màu trắng có khối lượng là 0,03 gam đã sử dụng toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu lần lượt là D1, D2.
Tại bản kết luận giám định số 979 ngày 14/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D2 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,03 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,08 gam; loại Methamphetamine và 0,03 gam loại Heroine”.
Quá trình điều tra Cầm Văn Đ khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 10/5/2021 Đ đem theo số tiền 50.000đ đi bộ lên bản Ta Tạng, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã rủ Cà Văn Q đi chơi, nhưng do không gặp được Q nên Đ quay về. Khi về đến bản Chiềng Xôm, Đ gặp một nam thanh niên người dân tộc Kinh khoảng 20 tuổi không rõ lai lịch, qua nói chuyện Đ hỏi mua viên hồng phiến và heroine với số tiền 50.000đ thì nam thanh niên này đồng ý, Đ đưa cho nam thanh niên số tiền 50.000đ rồi đợi khoảng 30 phút thì nam thanh niên này quay lại đưa cho Đ 02 gói nilon, trong đó có 01 gói nilon màu trắng chứa viên nén màu hồng, 01 gói nilon màu đen chứa một ít heroine, Đ cất vào túi quần rồi đi về, khi về đến ngã ba bản Chiềng Xôm thì lên cơn nghiện ma túy, Đ có ý định lấy ma túy ra để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, Sông Mã đi đến kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.
Tại Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 19/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Cầm Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cầm Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 13 - 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng liên quan. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình, nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.
[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 11/5/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 979 ngày 14/5/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến sự việc và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu ma túy với mục đích để sử dụng, sau đó bị bắt quả tang, khối lượng ma túy bị thu giữ là 0,11 gam (trong đó 0,08 gam loại Methamphetamine, 0,03 gam loại Heroine) của bị cáo Cầm Văn Đ đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị thu giữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.
[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với số vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ.
[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với nam thanh niên bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.
[8] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan tại phiên toà là phù hợp nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tuyên bố: Bị cáo Cầm Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Cầm Văn Đ 13 (mười ba) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 11/5/2021.
- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;
điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu đen.
(Các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 046192).
Theo Quyết định chuyển vật chứng số 88/QĐ - VKSSM ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2021 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 17/8/2021./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 121/2021/HSST
Số hiệu: | 121/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về