TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 120/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2023/TLST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2023/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 11 năm 2023; đối với bị cáo:
Vũ Quang T, sinh năm 1960 tại T; nơi cư trú: Thôn N, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh T; trình độ văn hóa (học vấn): 7/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Quang N2 (đã chết) và bà Hoàng Thị L (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị O, sinh năm 1968 và có 03 con, con lớn sinh năm 1987, 02 con nhỏ cùng sinh năm 1988; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 25/01/2021 Tòa án nhân dân huyện Đ quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 05/2021/QĐ-TA, thời gian 12 tháng. Sau đó, T được hoãn chấp hành biện pháp xử lý hành chính 02 lần với tổng thời gian là 06 tháng. Sau khi hết thời gian hoãn, Tư chưa đi thi hành Quyết định trên; nhân thân: Bản án số 11/2007/HS-ST ngày 12/4/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Th xử phạt Tư 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án số 111/2012/HS-ST ngày 20/4/2012 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt Tư 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án số 225/2016/HS-ST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt Tư 25 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Tư kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Bản án hình sự phúc thẩm số 729/2016/HS-PT ngày 11/7/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 225/2016/HS-ST ngày 29/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng; Tư chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/01/2018, nộp xong án phí hình sự ngày 28/11/2019. Vũ Quang T bị nhiễm Virus suy giảm miễn dịch (HIV) giai đoạn lâm sàng 2; bị bắt tạm giữ từ ngày 04/6/2023 đến ngày 07/6/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ (có mặt tại phiên tòa).
*Người chứng kiến:
- Ông Đỗ Ngọc T2, sinh năm 1962; nơi cư trú: Thôn L, xã T3, huyện Đ, tỉnh T (vắng mặt).
- Ông Lê Ngọc A, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn L, xã T3, huyện Đ, tỉnh T (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 04/6/2023, tại trục đường thôn L, xã T3, huyện Đ ; Công an huyện Đ, tỉnh T kiểm tra thu giữ tại lòng bàn tay trái của Vũ Quang T 01 túi nhỏ, loại túi nilon trong suốt, có nắp cài viền màu đỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Tư khai là ma túy loại Hêrôin, Tư vừa mới mua của một người đàn ông không quen biết, ở khu vực cầu Đình Thượng thuộc địa phận xã Minh Tân, huyện Đ, với giá 200.000 đồng, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an bắt giữ và lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong quản lý vật chứng theo quy định.
Tại bản kết luận giám định số 842/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma tuý, loại Heroin (Heroine), có khối lượng 0,3478 gam (Không phẩy ba nghìn bốn trăm bẩy mươi tám gam).
- Tại phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.
- Tại Cơ quan điều tra, người chứng kiến là ông Đỗ Ngọc T2 và ông Lê Ngọc A khai: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 04/6/2023, tại trục đường thôn Lộ Vị, xã Thăng Long, huyện Đ ; ông T2 và ông A đã chứng kiến việc Công an huyện Đ khám xét, thu giữ tại lòng bàn tay trái của Vũ Quang T 01 túi nhỏ, loại túi nilon trong suốt, có nắp cài viền màu đỏ , bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai là ma túy loại Hêrôin, T vừa mới mua để sử dụng cho bản thân.
Bản cáo trạng số 120/CT-VKSĐH ngày 13 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Vũ Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Quang T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng tù đến 02 năm 09 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy thu giữ của Vũ Quang T được hoàn lại sau giám định, niêm phong trong phong bì số 842/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T - Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bi cáo.
Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo bị ốm đau, bệnh tật và đã thành khẩn khai báo. Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Đ lập hồi 14 giờ 25 phút ngày 04/6/2023; biên bản niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định số 842/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; lời khai của người chứng kiến làông Đỗ Ngọc T2 và ông Lê Ngọc A; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vũ Quang T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng T vẫn cố ý tàng trữ trái phép trên người 0,3478 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Vũ Quang T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân làm phát sinh và gia tăng các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu đã 03 lần phải đi chấp hành án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và có 01 tiền sự do Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 05/2021/QĐ-TA, ngày 25/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ đối với bị cáo mặc dù đã hết thời hiệu thi hành nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Hậu quả mà bị cáo gây ra phải chịu sự trừng trị của pháp luật, đây là bài học cho bị cáo và những người mắc nghiện ma túy, phạm các tội về ma túy.
[4] Khi quyết định hình phạt, xét thấy:
- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
- Trong quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định mức án tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và để giáo dục, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn; bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về nguồn gốc ma tuý: Quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được người bán ma túy cho bị cáo là ai, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử miễn án phí cho bi cáo.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Vũ Quang Tư 02 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04/6/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine thu giữ của Vũ Quang Tư được hoàn lại sau giám định, niêm phong trong phong bì số 842/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.
(Vật chứngtrên đã được bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ ngày 13/11/2023).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV;
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Quang T.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2023/HS-ST
Số hiệu: | 120/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về