Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 120/2023/HS-ST NGÀY 04/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 144/2023/TLST – HS, ngày 19 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2023/QĐXXST – HS, ngày 24 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

- Lò Văn N (tên gọi khác: Không), sinh ngày 20 tháng 6 năm 1992 tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Nơi thường trú tại bản T, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Giới tính: Nam. Tôn giáo, đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông Lò Văn T, sinh năm 1974 và bà Lò Thị L, sinh năm 1973, bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự: Không. Tiền án: bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích theo bản án số 71/2018/HSST, ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Nhân thân: Tại bản án số 24/2008/HSST, ngày 04/3/2008 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 36 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2023 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 50 phút, ngày 20/4/2023, tổ công tác Công an phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực Hồ xanh, thuộc tổ 04, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Lò Văn N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (N tự giác đưa từ lòng bàn tay phải ra giao nộp 01 gói giấy bạc bên trong có chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng và khai nhận hồng phiến mua về để sử dụng). Cơ quan công an đã tiến hành niêm phong vật chứng và tạm giữ hành chính bị cáo.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Một) gói giấy bạc, bên trong có chứa 03 viên nén đồng dạng màu hồng nghi chất ma túy.

Vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 21/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định vật chứng, kết quả:

- Bóc mở 01 phòng bì đựng vật chứng đã được niêm phong dán kín bên trong có 01 (Một) gói giấy bạc, mở ra bên trong có 03 viên nén màu hồng. Tiến hành cân tịnh 03 viên nén màu hồng trong gói giấy bạc có khối lượng 0,29 gam, lấy 02 viên nén màu hồng có khối lượng 0,20 gam cho vào túi ni lon màu trắng gửi giám định ký hiệu A, còn lại 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam cho vào túi ni lon màu trắng làm mẫu lưu kho ký hiệu B.

Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Sơn La tiến hành Quyết định trưng cầu giám định số 101/QĐ – ĐCSKT - MT, trưng cầu Phòng PC 09 – Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 860/KL - KTHS, ngày 24/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu kí hiệu A gửi giám định là ma túy; Loại Methamphetamime, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lò Văn N khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Chiều ngày 20/4/2023 bị cáo từ nhà ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đi xe khách xuống thành phố Sơn La để tìm việc làm. Khi đến địa phận thành phố Sơn La thuộc tổ 04, phường Tô Hiệu thì bị cáo xuống xe và đi bộ xung quanh một số khu vực thành phố Sơn La, đến khoảng 22 giờ 30 phút bị cáo đến đi bộ ở khu vực Hồ xanh, thuộc tổ 04, phường Tô Hiệu để tìm mua ma túy sử dụng thì gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng ở bên bờ hồ, bị cáo tiến đến gần và hỏi người đó “có ma túy bán không”, người đàn ông đó trả lời “có”, qua trao đổi bị cáo đã mua được của người đàn ông đó 01 gói ma túy hồng phiến với giá 200.000,đ, sau khi nhận được gói ma túy bị cáo cầm gói ma túy ở trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ tìm nơi để sử dụng ma túy, khi bị cáo đang đi bộ một đoạn thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số: 330/QĐ - VKSTP, ngày 18/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La truy tố: Bị cáo Lò Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn N từ 16 đến 20 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì công văn công an thành phố Sơn La được niêm phong, bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở + 01 mảnh giấy bạc + mẫu lưu kho ký hiệu B = 0,09 gam.

Do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn N thành khẩn nhận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát và đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Ngày 20/4/2023, Lò Văn N đã có hành vi cất giấu trái phép 0,29 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang khu vực tổ 04, phường Tô Hiệu thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội cũng như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội, bản tự khai của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 23 giờ 00 phút ngày 20/4/2023 tại tổ 04, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La đối với bị cáo cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy bạc bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,29 gam.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 860/KL - KTHS, ngày 24/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La;

- Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Trần Quang B, sinh năm 1981, trú tại tổ X, phường T, thành phố Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Lò Văn N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng chất ma túy là 0,29 gam Methamphetamine, đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất tình hình trật tự an ninh xã hội tại địa phương, bị cáo là người có đủ nhận thức về hành vi của mình và phạm tội với lỗi cố ý. Do đó cần nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Tại bản án số 24/2008/HSST, ngày 04/3/2008 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 36 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản” (thời điểm bị cáo phạm tội theo bản án sơ thẩm này thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 71/2018/HSST, ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích theo điều 70 Bộ luật Hình sự lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền):

- Bị cáo không có công việc ổn định thường xuyên, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Vật chứng vụ án:

- Đối với 0,09 gam Methamphetamine còn lại là chất ma túy bị pháp luật Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ và 01 phong bì niêm phong khi bắt quả tang + một mảnh giấy bạc, là vật không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông này, ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh do vậy không đủ căn cứ để điều tra mở rộng vụ án. Cần buộc bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về số ma túy đã thu giữ.

[7] Về án phí: Do bị cáo là Người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo đề nghị xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm, do đó cần xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn N 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 20/4/2023).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì công văn do Công an thành phố Sơn La phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước ghi dòng chữ: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn N, sinh năm 1992 – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20/4/2023. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; Một mảnh giấy màu bạc; Mẫu lưu kho ký hiệu B có khối lượng 0,09 gam”, mặt sau tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, được đóng dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Sơn La và có chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/8/2023 giữa Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm đ điều 12, khoản 6 điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04/8/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 120/2023/HS-ST

Số hiệu:120/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về