Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 119/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 119/2022/HS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2022/HSST ngày 30 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2022/QĐXXST – HS ngày 20/7/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc A, Sinh ngày 01 tháng 11 năm 1980 tại H; HKTT: Tổ 19, khu phố 4, pL B, TP. J, tỉnh I; Nơi tạm trú và chỗ ở: khu phố 5, pL C, TP. P, tỉnh B; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn D; sinh năm 1955; nghề nghiệp: già yếu; Con bà: Nguyễn Thị Xuân E; sinh năm 1958; nghề nghiệp: già yếu, Cùng cư trú: khu phố 4, pL B, TP. J, tỉnh I; Vợ: Phan Hà F; sinh năm 1984 (đã ly hôn); Con: Nguyễn Gia G, sinh năm 2007; Tiền án: Ngày 22/02/2011, bị TAND tối cao tại H xử phạt 16 năm tù về tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích” (theo Bản án số 91/2011/HSPT). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/9/2020, chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/02/2003, bị TAND tỉnh I xử phạt 20 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (theo Bản án số 12/HSST). Đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/02/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố P "Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 14/02/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Ngọc A điều khiển xe mô tô hãng SYM, nhãn hiệu Elizabeth biển số 86C1- K.99 từ phòng trọ của A thuộc khu phố 05, pL C, TP. P đi vào con hẻm nằm trên đường Chế Lan Viên thuộc khu phố 05, pL C gặp 01 người phụ nữ tên Vy (không rõ nhân thân) để mua 01 gói ma túy đá với giá 3.000.000 đồng và 01 tép ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, A lấy tép ma túy giá 200.000 đồng bỏ vào túi quần trước bên trái và 01 gói ma túy lớn A cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi A điều khiển xe mô tô đến đầu hẻm đường Chế Lan Viên thì bị lực lượng tuần tra Đồn biên phòng C kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay trái của A 01 gói nhựa một đầu có khóa đóng bên trong chứa tinh thể màu trắng; thu giữ trong túi quần phía trước bên trái mà A đang mặc có 01 gói nhựa được hàn kín xung quanh bên trong chứa tinh thể màu trắng. Lực lượng tuần tra Đồn biên phòng C đưa A cũng tang vật về trụ sở để làm việc.

Vật chứng của vụ án:

- Thu giữ bên trong lòng bàn tay trái của A 01 gói nhựa một đầu có khóa đóng, kích thước (04x08) cm, bên trong gói nhựa chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M1 khi giám định).

- Thu giữ trong túi quần phía trước bên trái mà A đang mặc 01 gói nhựa được hàn kín xung quanh, kích thước (01x2,5) cm, bên trong gói nhựa chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2 khi giám định).

- 01 xe mô tô hãng SYM, nhãn hiệu Elizabeth biển số 86C1-K.99, số khung 12HDCD068057, số máy MVTBBD068057

Tại kết luận giám định số 159/KLGĐ-PC09 ngày 18/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B đã kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 5,0495 gam; là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,0856 gam; là Methamphetamine.

Xử lý vật chứng:

Hiện các mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 159 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B, Viện kiểm sát nhân TP.P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự TP.P bảo quản chờ xử lý.

Đối với xe mô tô hãng SYM, nhãn hiệu Elizabeth biển số 86C1-K.99, số khung 12HDCD068057, số máy MVTBBD068057: quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số 86C1-K.99 do chị Nguyễn Thị L (sinh năm 1982, trú tại khu phố 5, pL C, TP P, là bạn gái của A) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 14/02/2022 A mượn L đi công việc, L không biết việc A sử dụng xe đi mua ma túy sử dụng và bị bắt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP P đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại xe mô tô trên cho Nguyễn Thị L.

Tại bản cáo trạng số 85/CT – VKS ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc A về tội “Tàng trữ trái phép chất chất ma túy” theo quy định tại điểm g, o khoản 02 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm g, o khoản 02 Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm 06 tháng tù.

Biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì niêm phong bì số 159 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P.

Bị cáo ăn năn hối cải mong Hội đồng giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết quả giám định kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh B về vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập theo quy định của pháp luật có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 14/02/2022, tại khu phố 05, pL C, TP. P, bị cáo Nguyễn Ngọc A có hành vi tàng trữ trái phép 5,0495 gam Methamphetamine trong lòng bàn tay trái và 0,0856 gam Methamphetamine trong túi quần phía trước bên trái mà bị cáo A đang mặc (tổng cộng 5,1351 gam Methamphetamine) thì bị lực lượng tuần tra Đồn biên phòng C phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.

Xét thấy, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Nguyễn Ngọc A đã có hành vi tàng trữ 5,1351 gam Methamphetamine để sử dụng; bị cáo đã bị kết án về tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho thấy: bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine là loại ma túy gây nghiện, nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ…chất ma túy trái phép. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội thế nhưng bị cáo xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cao cho xã hội nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới.

[3] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù nhưng không biết tu tĩnh làm ăn lương thiện mà vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình sự cho bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, xem xét nhân thân bị cáo, xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[5]Về xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 159 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, do vậy cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô hãng SYM, nhãn hiệu Elizabeth biển số 86C1-K.99, số khung 12HDCD068057, số máy MVTBBD068057: quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số 86C1-K.99 do chị Nguyễn Thị L (sinh năm 1982, trú tại khu phố 5, pL C, TP P, là bạn gái của A) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 14/02/2022 A mượn L đi công việc, L không biết việc A sử dụng xe đi mua ma túy sử dụng và bị bắt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP P đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu trả lại xe mô tô trên cho Nguyễn Thị L là đúng theo quy định pháp luật.

Đối với đối tượng tên Vy bán ma túy cho A, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý là có cơ sở.

[6]Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 02 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 *Căn cứ: Điểm g, o khoản 02 Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

*Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc A 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14/02/2022.

*Biện pháp tư pháp:

+Áp dụng: điểm c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 159 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 101 ngày 28/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P.)

*Về án phí: aùp duïng khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Bị cáo Nguyễn Ngọc A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( 03/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 119/2022/HS-ST

Số hiệu:119/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về