Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 118/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Trần Văn D, sinh ngày 18 tháng 7 năm 1969 tại huyện V, tỉnh S. Nơi cư trú: Thôn K, xã T, huyện V, tỉnh S; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Viết P, sinh năm 1948 (đã chết) và bà Hoàng Thị V, sinh năm 1946 (đã chết); có vợ thứ nhất: Hoàng Thị I, sinh năm 1970 (đã chết), vợ thứ hai Vi Thị T, sinh năm 1975 và 02, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993; tiền án: Không có, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ từ ngày 27-9- 2023, tạm giam ngày 30-9-2023 đến nay; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn H; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 27-9-2023, Trần Văn D một mình bắt xe khách từ nhà đến khu vực ngã ba M thuộc thôn T, xã M, huyện V, tỉnh S gặp và mua ma túy với một người đàn ông khoảng 35 tuổi, (không biết họ tên, địa chỉ) với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) được 02 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất ma túy Heroine. Trần Văn D nhận lấy số ma túy cầm trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ về nhà thì khoảng 11 giờ 50 phút bị tổ công tác Công an huyện phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản Kết luận giám định số 1002/KL-KTHS ngày 29-9-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S kết luận: Tang vật thu giữ của Trần Văn D là ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,110g.

Tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKS ngày 28 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội; do bị cáo nghiện ma tuý nên đã mua 02 gói với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) về sử dụng cho bản thân.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn D từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Trần Văn D” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,093 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 02 vỏ bao gói giấy cũ.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về trình tự, thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều có giá trị pháp lý, đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà vắng mặt người chứng kiến. Xét thấy người chứng kiến ông Hoàng Văn H đã có lời khai trong hồ sơ vụ án; do vậy việc vắng mặt người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người chứng kiến và phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27-9-2023; Kết luận giám định số 1002/KL-KTHS ngày 29-9-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S, ngoài ra phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ xác định: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 27-9-2023, tổ công tác Công an huyện V, tỉnh S làm nhiệm vụ tại khu vực cầu N, thuộc thôn T, xã M, huyện V, tỉnh S phát hiện, bắt quả tang Trần Văn D có hành vi tàng trữ 0,110g chất ma túy Heroin, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, theo như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh S đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm quyền độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, là một trong các nguyên nhân gây phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực nhận thức hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp và cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 5.000.000 (năm triệu) đồng đến 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Tuy nhiên căn cứ vào biên bản xác minh ngày 16-11-2023 tại Uỷ ban nhân dân xã M, huyện V, tỉnh S và phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, thấy rằng bị cáo không có công việc, không có thu nhập ổn định, đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà ở và đất vườn, tuy nhiên những diện tích đất này hiện nay vợ và con bị cáo đang sử dụng và canh tác. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Trần Văn D” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,093 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 02 vỏ bao gói giấy cũ vì là vật cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Đối với người đàn ông khoảng 35 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo Trần Văn D do không xác định được họ tên, tuổi địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý trong vụ án này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, về việc xử lý vật chứng và giải quyết toàn bộ vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt - Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trần Văn D 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 27-9-2023.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trần Văn D.

3. Về xử lý vật chứng Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có chữ viết tay “QT Trần Văn D” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,093 gam chất ma túy Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 02 vỏ bao gói giấy cũ.

(Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh S theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh S và Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh S).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 118/2023/HS-ST

Số hiệu:118/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về