Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 117/2023/HS-ST NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 111/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn B, sinh năm 1986 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn 3, xã Đ, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn B và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2008; tiền án: Ngày 30/5/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt ngày 20/5/2013). Ngày 10/12/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt ngày 12/5/2022); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 22/7/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 28/7/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Chu Văn Thanh T, sinh năm 1995; trú tại: Thôn L, xã L, huyện Y, tỉnh Hưng Yên; vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Trần Quang H, sinh năm 2000; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 22/7/2023, Nguyễn Văn B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 89M2-X đi từ nhà đến khu vực Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Hà Nam thuộc tổ M, phường L, thành phố Phủ Lý thì gặp bạn nghiện tên K (không biết địa chỉ cụ thể ở đâu). Trong lúc nói chuyện, K rủ B góp tiền mua ma túy sử dụng, B nói không có tiền góp thì K nói mời B đi chơi nên B đồng ý. K điều khiển xe mô tô đi trước, B điều khiển xe mô tô đi sau. Khi đi đến khu vực xóm 1, xã L, thành phố P thì K dừng xe mô tô lại bảo B đứng đợi. K đi khoảng 15 phút sau thì quay lại đưa cho B 01 gói giấy bạc màu vàng và bảo B cất cẩn thận để đi chơi, biết là ma túy nên B không mở ra kiểm tra mà cầm giữ trong lòng bàn tay trái rồi điểu khiển xe mô tô đi cùng K tìm chỗ sử dụng. Khi K và B đi đến khu vực đường tàu thuộc xóm 2, xã L, thành phố P thì B bị lực lượng Công an xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý tuần tra phát hiện bắt quả tang, còn K phóng xe mô tô bỏ chạy thoát. Lực lượng Công an đã đưa B cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục thu giữ trong tay trái của Nguyễn Văn B niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

- 01 căn cước công dân và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B.

- 01 ví giả da màu đen, đã cũ.

- 01 đăng ký xe mang tên Chu Văn Thanh T.

- 01 xe mô tô, biển kiểm soát 89M2-X và số tiền 600.000 đồng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.

Ngày 22/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Văn B nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 468/PC09-MT, ngày 26/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,123g, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 118/CT-VKS-PL ngày 09/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm 06 tháng tù; Bị cáo không có tài sản thu nhập gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói; trả lại bị cáo Nguyễn Văn B: 01 căn cước công dân và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B, 01 ví giả da màu đen đã cũ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và số tiền 600.000 đồng, nhưng cần tạm giữ số tiền trên để đảm bảo công tác thi hành án dân sự, căn cước công dân và chứng minh nhân dân của bị cáo cần giao Cơ quan Thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ để trả lại bị cáo khi chấp hành xong án phạt tù; trả lại anh Chu Văn Thanh T: 01 đăng ký xe mang tên Chu Văn Thanh T và 01 xe mô tô biển kiểm soát 89M2- X.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn B đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ để buộc tội: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 22/7/2023, tại khu vực xóm 2, xã L, thành phố P, Nguyễn Văn B đang cất giữ trái phép 0,123 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt quả tang.

Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có 02 tiền án, trong đó Bản án năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”. Do đó hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã 02 lần bị Tòa án có thẩm quyền xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì, không có công việc và thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn B, B khai được một người đàn ông tên K khoảng 30 tuổi gặp ở khu vực tổ dân phố M, phường L, thành phố P cho để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường L, xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên chưa đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với số ma túy loại Heroine được hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với: 01 căn cước công dân và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B; 01 ví giả da màu đen, đã cũ; 01 điện thoại do động nhãn hiệu Samsung và số tiền 600.0000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo. Nhưng cần tạm giữ số tiền trên để đảm bảo công tác thi hành án dân sự, căn cước công dân và chứng minh nhân dân cần giao Cơ quan Thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại bị cáo khi chấp hành xong án phạt tù;

- Đối với 01 đăng ký xe mang tên Chu Văn Thanh T và 01 xe mô tô, biển kiểm soát 89M2-X. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của anh Chu Văn Thanh T. Anh Tùng cho bị cáo mượn để đi lại nhưng không biết bị cáo sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại anh T tài sản và giấy tờ này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2023.

2. Xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả QT01, số: 468/KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn B: 01 căn cước công dân số 03508600X mang tên Nguyễn Văn B; 01 chứng minh nhân dân số 168175507 mang tên Nguyễn Văn B; 01 ví giả da màu đen, đã cũ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ ngoài màu đen, số IMEI1: 353418119430012/01, IMEI2: 353419119430010/01 và số tiền 600.000 đồng;

Nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo công tác thi hành án dân sự; căn cước công dân và chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn B giao Cơ quan Thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại bị cáo khi chấp hành xong án phạt tù;

- Trả lại anh Chu Văn Thanh T: 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 89000518 mang tên Chu Văn Thanh T và 01 chiếc xe mô tô biển số 89M2- X, nhãn hiệu HonDa, màu sơn: xanh bạc, số máy: JA39E3184650, số khung RLHJA3925PY544769.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận đồ vật tài liệu vật chứng lập ngày 11/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý. Số tiền xử lý nêu trên theo Ủy nhiệm chi số 58 lập ngày 19/10/2023).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 117/2023/HS-ST

Số hiệu:117/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về