Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2024/HS-ST NGÀY 12/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 04 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T, sinh năm 2002 tại tỉnh Đ; thường trú: Số 29, ấp K11, xã P, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:

06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1983 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979;

Tiền án: Ngày 14/6/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 166/2022/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/05/2023 tại Trại tạm giam An Phước, đóng 200.000 đồng tiền án phí hình sự ngày 26/8/2022.

Tiền sự: Không; nhân thân: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Thành D, sinh năm 2002; thường trú:

Khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 15/12/2023, T đi bộ từ nhà trọ số A12/13, khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố T, tỉnh D đến khu vực nhà hàng “ Nam Hải 5” thuộc khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thành phố T, tỉnh D để gặp một đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua 500.000 đồng ma túy đá thì được H giao cho 02 gói nylon miệng hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, T quay về phòng trọ cất giấu trong nhà vệ sinh. Đến 14 giờ 00 phút ngày 17/12/2023, T lấy 02 gói ma túy đá cất giấu vào trong quai dép bên trái nhãn hiệu adidas của T rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển số 78G1-xxxxx đi từ nơi ở trọ đến khu vực phường D, thành phố D để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi đến trước số nhà 379 Lý Thường Kiệt, phường D, thành phố D, tỉnh D thì bị lực lượng Công an phường D, thành phố D yêu cầu dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Công an phường D phát hiện và thu giữ bên trong quai dép bên trái của T có 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy đá. Công an phường D đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, thu giữ tang vật, phương tiện, niêm phong gói ma túy và lập hồ sơ vụ việc chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D xử lý theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 39/KL-KTHS ngày 24 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh D kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng:

0,1095 gam (M1); 0,4518 gam (M2).

Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 39/KL-KTHS ngày 24 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh D.

Bản Cáo trạng số 122/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 03 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh D truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Vật chứng thu giữ, xử lý vật chứng:

- 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng có T lượng 0,5613 gam. Sau khi phục vụ việc giám định, số ma tuý còn lại sau giám định là 0,5176 gam, được niêm phong trong một bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe môtô hai bánh nhãn hiệu Honda, biển số 78G1-xxxxx, số khung: RLHJA3613EY037989, số máy: JA36E-0118156 đứng tên chủ sở hữu ông Đinh Văn D, sinh năm: 1967; HKTT: Xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Quá trình điều tra ông D xác định đã cầm cố chiếc xe trên tại cửa hàng cầm đồ “ Ngọc Bích” địa chỉ: Số 4/10B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh D do bà Lê Thị T1 làm chủ với số tiền 7.000.000 đồng nhưng sau đó ông D không đóng tiền, không có yêu cầu nhận lại xe nên bà T1 bán xe cho ai không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đã đăng báo 03 kỳ nhưng không tìm được chủ sở hữu nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với người đàn ông tên H bán ma túy cho T chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đang tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Quá trình giải quyết vụ án bị cáo Nguyễn Anh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và không có ý kiến tranh luận gì khác. Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của bị cáo; người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, Kết luận giám định số 39/KL-KTHS ngày 24 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh D và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 15/12/2023, trước nhà số 379 Lý Thường Kiệt, phường D, thành phố D, tỉnh D, Công an phường D lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Anh T, về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có khối lượng ma túy là 0,5613 gam, loại Methaphetamine.

Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng 0,5613 gam, loại Methamphetamine của bị cáo Nguyễn Anh T với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 122/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 03 năm 2024 của Viện kiểm sát thành phố D, tỉnh D truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm T, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng bị cáo Nguyễn Anh T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo không có.

[7] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm T, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng hình phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng có T lượng 0,5613 gam. Sau khi phục vụ việc giám định, số ma tuý còn lại sau giám định là 0,5176 gam, được niêm phong trong một bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe môtô hai bánh nhãn hiệu Honda, biển số 78G1-xxxxx, số khung: RLHJA3613EY037989, số máy: JA36E-0118156 đứng tên chủ sở hữu ông Đinh Văn D, sinh năm: 1967; HKTT: Xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Quá trình điều tra ông D xác định đã cầm cố chiếc xe trên tại cửa hàng cầm đồ “ Ngọc Bích” địa chỉ: Số 4/10B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh D với số tiền 7.000.000 đồng nhưng sau đó ông D không đóng tiền nên tiệm cầm đồ Ngọc Bích đã bán xe cho ai không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đã đăng báo 03 kỳ nhưng không tìm được chủ sở hữu nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với người đàn ông tên H bán ma túy cho T chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đang tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là phù hợp.

[10] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2023.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong ghi số 39/PC09 bên trong chứa ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định (số ma túy còn lại sau giám định 0,5176 gam);

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 xe môtô hai bánh nhãn hiệu Honda, số loại: JA36BLADE (D), thể tích xylanh: 109.1cm3, biển kiểm soát: 78G1- xxxxx, số khung: RLHJA3613EY037989, số máy: JA36E-0118156.

(Theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/03/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Anh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2024/HS-ST

Số hiệu:116/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về