Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 116/2023/HS-ST NGÀY 23/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T,tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2023/HSST, ngày 06 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 277/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Ngọc H, sinh năm 1989; giới tính: Nam; nơi sinh: thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: tổ 3, khu phố 5, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 06/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Con ông: Trần Ngọc Th, sinh năm 1941 và bà Huỳnh Thị R, sinh năm 1945; anh, chị, em ruột: có 07 anh, chị em; vợ: Trần Thị Hoàng Ph, sinh năm 1987 (đã ly hôn); con: có 01 con, sinh năm 2007; tiền án: ngày 26/5/2016, bị TANDCC tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm xử phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích do chưa thi hành xong các khoản án phí và các quyết định khác tại Bản án số 07/2017/HSST ngày 15/3/2016 của TAND tỉnh Bình Định); tiền sự: không; nhân thân: ngày 07/02/2013, bị TAND huyện T,tỉnh Bình Định xử phạt 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt ngày 07/8/2013, đã được xóa án tích; ngày 26/6/2017 bị TAND huyện T,tỉnh Bình Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt với 03 (Ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Bản án số 168/2016/HSPT ngày 26/5/2016 của TANDCC tại Đà Nẵng là 60 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 06/11/2020, đã được xóa án tích; bị cáo bị tạm giam từ ngày 26/4/2023 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Chị Huỳnh Thị Cẩm Th1, sinh năm 1990, có mặt.

Địa chỉ: Thôn V2, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định.

2. Bà Huỳnh Thị Thu H1, sinh năm 1978, có mặt.

Địa chỉ: Thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Thông qua mối quan hệ xã hội, Trần Ngọc H biết số điện thoại một thanh niên tên Gia (không rõ nhân thân, lai lịch) ở huyện T,tỉnh Bình Định bán ma túy loại Methamphetamine (thường gọi là ma túy đá). Khoảng 16h00’ ngày 21/4/2023, Trần Ngọc H sử dụng sim điện thoại không đăng ký chính chủ gọi đến số điện thoại của người này hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá. Sau khi thỏa thuận cách thức và địa điểm giao nhận ma túy, H đi bằng xe máy đến ngã ba cầu ông Đ, thị trấn T, huyện T,tỉnh Bình Định lấy ma túy đá rồi đưa 1.000.000 đồng cho Gia. Sau đó, H mang ma túy về phòng trọ do H thuê của bà Huỳnh Thị Thu H1 ở thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tại đây, H cất giấu một đoạn ống hút bên trong chứa ma túy đá vào hộp két nước của bồn cầu nhà vệ sinh để sau này sử dụng, đoạn ống hút chứa ma túy đá còn lại thì H dùng các dụng cụ như quẹt ga, nỏ thủy tinh, chai nhựa chứa nước lọc để sử dụng ma túy. Sử dụng xong, H cất dụng cụ sử dụng ma túy trong túi xách tay màu xanh đặt tại nền nhà trước phòng vệ sinh. Đến 16h45’ngày 26/4/2023, Công anxã Ph1, huyện Tkiểm tra phòng trọ của H thì phát hiện H có biểu hiện nghi vấn, qua kiểm tra phòng trọ Công anxã Ph1 phát hiện các tang vật và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Ngọc H.

Tại bản Cáo trạng số 113/CT-VKS-TP ngày 05/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T,tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tvẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc H với mức hình phạt từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng 47 Bộ luật hình sự , Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên tiêu hủy 01 bì ni lông được niêm phong bằng cách dán kín miệng bằng băng keo, trên miệng dán giấy niêm phong có chữ ký Nguyễn Công Luận, Trương Ngọc Chánh, Trần Ngọc H, Huỳnh Thị Thu H1 và 02 dấu tròn Công anxã Ph1 ( bên trong có 01 (Một) chai nhựa có nắp đậy màu đỏ đục thủng 02 lỗ tròn, đường kính mỗi lỗ 0,5cm, 01 (một) quẹt gas bằng nhựa dán giấy màu trắng có chữ “Hoa Việt”; 01 (Một) ống hút nhựa màu trắng đường kính 0,5cm, dài 31cm; 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu ASUS-X00TD, màn hình cảm ứng màu xanh, số Imei 1 là 359376092104042, số Imei 2 là 359376092104059; 01 bì thư số: 212/KL-KTHS dán kín, niêm phong dấu tròn Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, có chữ ký của Lê Tuấn Tịnh, Nguyễn Công Luận và Nguyễn Thành Trung (bên trong có vỏ, bao bì dựng mẫu vật ; 01 nỏ thủy tinh hình móc câu bị gãy thành 02 phần và 0,0516gam mẫu A1, 0,0203 gam mẫu A2 còn lại sau giám định).

Bị cáo Trần Ngọc H nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi và xin Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T,tỉnh Bình Định; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T,tỉnh Bình Định; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người được triệu tập tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Ngọc H tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ xác định: Khoảng 16h00’ ngày 21/4/2023, Trần Ngọc H sử dụng sim điện thoại không đăng ký chính chủ gọi đến số điện thoại của người tên Gia mua 1.000.000đồng ma túy đá, việc giao nhận tiền và ma túy được thực hiện ở ngã ba cầu ông Đ, thị trấn T, huyện T,tỉnh Bình Định. Sau đó, H mang ma túy về phòng trọ do H thuê của bà Huỳnh Thị Thu H1 ở thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định. Tại đây, H cất giấu một đoạn ống hút bên trong chứa ma túy đá vào hộp két nước của bồn cầu nhà vệ sinh để sau này sử dụng, đoạn ống hút chứa ma túy đá còn lại thì H dùng các dụng cụ như quẹt ga, nỏ thủy tinh, chai nhựa chứa nước lọc để sử dụng ma túy. Sử dụng xong, H cất dụng cụ sử dụng ma túy trong túi xách tay màu xanh đặt tại nền nhà trước phòng vệ sinh. Nên Vào ngày 26/4/2023, Công anxã Ph1 kiểm tra và phát hiện tại phòng trọ của Trần Ngọc H thuê ở thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định, Trần Ngọc H đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2031 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Bị cáo H không tranh luận gì với Kiểm sát viên và cũng không đưa ra chứng cứ nào để bào chữa cho hành vi phạm tội của bị cáo. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tđã truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ.

[3] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Trần Ngọc H là người có khả năng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vì bị cáo coi thường pháp luật nên đã có hành vi mua ma túy về giấu ở hộp két nước của bồn cầu nhà vệ sinh tại phòng trọ với khối lượng 0,2031gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Hđã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo Hgây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm tới các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước trong việc quản lý, cất giữ chất ma túy, mà còn gây mất trật tự xã hội ở địa phương.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Hcó nhân thân xấu, cụ thể ngày 07/02/2013, bị TAND huyện Txử phạt 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự, chấp hành xong hình phạt ngày 07/8/2013, đã được xóa án tích; ngày 26/6/2017 bị TAND huyện Txử phạt 24 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt với 03 (ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Bản án số 168/2016/HSPT ngày 26/5/2016 của TANDCC tại Đà Nẵng là 60 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 06/11/2020, đã được xóa án tích. Bị cáo còn có tiền án là vào ngày 26/5/2016, bị TANDCC tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm xử phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa thi hành xong các khoản án phí và các quyết định khác tại Bản án số 07/2017/HSST, ngày 15/3/2016 của TAND tỉnh Bình Định nên chưa được xóa án tích. Vì chưa được xóa án tích mà bị cáo tiếp tục phạm tội, nên khi Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với bị cáo Hthì cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xét về xử lý vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy các mẫu vật còn lại sau giám định, các vật chứng khác, cụ thể:

- 01 bì ni lông được niêm phong bằng cách dán kín miệng bằng băng keo, trên miệng dán giấy niêm phong có chữ ký Nguyễn Công Luận, Trương Ngọc Chánh, Trần Ngọc H, Huỳnh Thị Thu H1 và 02 dấu tròn Công anxã Ph1 [ bên trong có 01 (Một) chai nhựa có nắp đậy màu đỏ đục thủng 02 lỗ tròn, đường kính mỗi lỗ 0,5cm, 01 (Một) quẹt gas bằng nhựa dán giấy màu trắng có chữ “Hoa Việt”; 01 (Một) ống hút nhựa màu trắng đường kính 0,5cm, dài 31cm];

- 01 bì thư số: 212/KL-KTHS dán kín, niêm phong dấu tròn Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, có chữ ký của Lê Tuấn Tịnh, Nguyễn công Luận và Nguyễn Thành Trung (bên trong có vỏ, bao bì dựng mẫu vật; 01 nỏ thủy tinh hình móc câu bị gãy thành 02 phần và 0,0516gam mẫu A1, 0,0203 gam mẫu A2 còn lại sau giám định).

Tuyên hoàn trả 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu ASUS-X00TD, màn hình cảm ứng màu xanh, số Imei 1 là 359376092104042, số Imei 2 là 359376092104059 cho bị cáo H.

[8] Đối với Huỳnh Thị Cẩm Th1 là người ở cùng phòng trọ với Trần Ngọc H tại thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định nhưng Th1 không biết việc H cất giấu ma túy tại phòng trọ để sử dụng; Huỳnh Thị Thu H1 là chủ phòng trọ mà Trần Ngọc H thuê để ở tại thôn Ph3, xã Ph1, huyện T,tỉnh Bình Định, nhưng H1 không biết việc H cất giấu ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng trọ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tkhông xử lý hình sự đối với Th1 và H1 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông tên Gia mà Trần Ngọc H khai đã bán ma túy cho H vào ngày 21/4/2023, qua điều tra Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác định nhân thân, lai lịch của người này nên không có căn cứ để xử lý.

[10] Xét về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội :“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 26/4/2023.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy các mẫu vật còn lại sau giám định, các vật chứng khác, cụ thể:

- 01 bì ni lông được niêm phong bằng cách dán kín miệng bằng băng keo, trên miệng dán giấy niêm phong có chữ ký Nguyễn Công Luận, Trương Ngọc Chánh, Trần Ngọc H, Huỳnh Thị Thu H1 và 02 dấu tròn Công anxã Ph1 [ bên trong có 01 (Một) chai nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ đục thủng 02 lỗ tròn, đường kính mỗi lỗ 0,5cm, 01 (Một) quẹt gas bằng nhựa dán giấy màu trắng có chữ “Hoa Việt”; 01(Một) ống hút nhựa màu trắng đường kính 0,5cm, dài 31cm];

- 01 bì thư số: 212/KL-KTHS dán kín, niêm phong dấu tròn Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, có chữ ký của Lê Tuấn Tịnh, Nguyễn Công Luận và Nguyễn Thành Trung (bên trong có vỏ, bao bì dựng mẫu vật; 01 nỏ thủy tinh hình móc câu bị gãy thành 02 phần và 0,0516gam mẫu A1, 0,0203 gam mẫu A2 còn lại sau giám định.

Tuyên hoàn trả 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu ASUS-X00TD, màn hình cảm ứng màu xanh, số Imei 1 là 359376092104042, số Imei 2 là 359376092104059 cho bị cáo H.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2023.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo H phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 23/11/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-ST

Số hiệu:116/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về