Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 116/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến với hai điểm cầu:

1. Điểm cầu trung tâm: Tại phòng xét xử số 1, Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

2. Điểm cầu thành phần: 01 điểm cầu tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.

Đối với vụ án hình sự thụ lý số 106/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Như N, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 21 tháng 11 năm 1992 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm B, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Như K, sinh năm 1966, con bà Nguyễn Thị K1, sinh năm 1967; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia t tụng khác:

- Người chứng kiến: Ông Phạm Công H, sinh năm 1969; Địa chỉ cư trú: Xóm B, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 04/8/2023 do có nhu cầu sử dụng ma túy, Nguyễn Như N đi bộ từ nhà ở của mình tại Xóm B, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An đón xe buýt đi đến khu vực cầu B thuộc xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N gặp một người đàn ông lái xe ôm (không rõ lai lịch, địa chỉ) và nói “Anh có biết chỗ nào bán hê không”. Người lái xe ôm hỏi "mua mấy". Nhâm nói “Em mua năm trăm". Người lái xe ôm nói “Chờ tí”. Sau đó người đàn ông lái xe ôm gọi điện khoảng 15 phút thì thấy có một người phụ nữ mặc áo khoác trắng, bịt khẩu trang điều khiển xe mô tô đến cách N và người lái xe ôm khoảng 50 mét thì người lái xe ôm nói Nhâm đi lại chỗ người phụ nữ mà mua herôin. Khi đến người phụ nữ nói “em mua năm trăm hê phải không” Nhâm trả lời “Dạ”. Sau đó N đưa cho người phụ nữ này 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) thì người phụ nữ này đưa cho N 01 (một) gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng ma túy Heroine. Nhâm cầm gói ma túy vừa mua được vào lòng bàn tay phải và tiếp tục đón xe buýt đi về xã L. Khi về đến xã L, N lấy một ít ma túy Heroine từ gói giấy kim tuyến màu vàng đi ra khu vực đồng ruộng thuộc xóm E, xã L để sử dụng. Số ma túy Heroine còn lại, N gói lại bằng giấy kim tuyến màu vàng cất ở trong túi quần bên phải mà N đang mặc.

Đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, N cầm gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có chứa ma túy Heroine vào lòng bàn tay phải đi bộ gần đến khu vực đồng ruộng thuộc xóm E, xã L để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Y tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng là 01 (một) gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng là ma túy (nghi là ma túy Heroine).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh Nghệ An thành lập Hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng và niêm phong lại vật chứng thu giữ của Nguyễn Như N, hội đồng đã xác định: 01 (một) gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng là ma túy (nghi là ma túy Heroine) thu giữ của N có tổng khối lượng là 0,14g (không phẩy mười bốn gam).

Ngày 04/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Như N không phát hiện, thu giữ, đồ vật tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 825/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 10 tháng 8 năm 2023, Phòng K2 Công an tỉnh N kết luận: “Mẫu chất rắn màu trắng thu giữ của Nguyễn Như N gửi đến giám định là ma túy; loại Heroine (H), có tên khoa học là D, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số: 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất, số chất rắn màu trắng thu giữ của Nguyễn Như N có khối lượng là 0,14 g (không phẩy mười bốn gam)”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Nguyễn Như N thừa nhận toàn bộ số ma túy mà lực lượng Công an thu giữ của N trong quá trình bắt quả tang đều là ma túy He rô in N mua với mục đích để sử dụng.

* Vật chứng và xử lý vật chứng:

- Thu giữ: 01 (một gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có 0,14 g (không phẩy mười bốn gam) ma túy Heroine. Sau khi lấy 0,1 g (không phẩy một gam) ma túy Heroine gửi đi giám định (không hoàn lại), còn lại 0,04 g (không phẩy không bốn gam) Heroine được niêm phong cùng vỏ vật chứng và vỏ bao bì niêm phong ban đầu.

- Xử lý vật chứng: Vật chứng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Y, chờ xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Như N là một người phụ nữ và người đàn ông lái xe Ô111 tại khu vực cầu B thuộc xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An hiện không rõ lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Bản cáo trạng số 112/CT-VKS-YT ngày 05/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố bị cáo Nguyễn Như N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Như N đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo bị phát hiện, bắt quả tang vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 04/8/2023 tại khu vực đồng ruộng thuộc xóm E, xã L, huyện Y là đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Như N từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 04/8/2023. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau khi đã lấy mẫu đi giám định (mẫu giám định không hoàn lại).

Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên nhưng có ý kiến: Bị cáo là người nghiện ma túy lần đầu phạm tội, có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, có Ông N1 là người có công với N2 nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức thấp nhất so với mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là khách quan và hợp pháp.

[2] Nội dung: [2.1] Về hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 14 giờ 45 phút ngày 04/8/2023; kết luận giám định số 825/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 10 tháng 8 năm 2023 của Phòng K2 Công an tỉnh N và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa.

Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 04/8/2023 tại xóm E, xã L, huyện Y bị cáo N đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy loại Heroine với khối lượng là 0,14 g (không phẩy mười bốn gam)” nhằm mục đích để sử dụng. Xét thấy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước ta, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không chịu tu dưỡng bản thân. Bị cáo là người trực tiếp giao dịch với người bán ma túy, mua về nhằm mục đích sử dụng. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Như N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự với mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, biết ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có ông Nguyễn Như T là ông N1 được tặng Bằng khen vì đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu Nước.

Do đó cần cho bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[2.3.] Về hình phạt b sung: Theo quy định ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, lại là người nghiện ma túy và không có tài sản riêng. Do đó hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc hình phạt khác đối với bị cáo.

[2.4.] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ là 01 (một gói giấy kim tuyến màu vàng, bên trong có 0,14 g (không phẩy mười bốn gam) ma túy Heroine. Sau khi lấy 0,1 g (không phẩy một gam) ma túy Heroine gửi đi giám định (không hoàn lại), còn lại 0,04 g (không phẩy không bốn gam) Heroine được niêm phong cùng vỏ vật chứng và vỏ bao bì niêm phong ban đầu. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2.5.] Về những vấn đề khác: Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho bị cáo là một người đàn ông lái xe ôm và một người phụ nữ tại khu vực cầu B thuộc xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An hiện không rõ lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[2.6.] Về mức hình phạt đối với bị cáo: Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, lý lịch và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, chưa có vợ con nhưng không tu chí làm ăn mà còn lao vào con đường nghiện ma túy hê rô in. Nên nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ răn đe giáo dục và phòng ngừa. Từ những nhận xét, đánh giá trên đây Hội đồng xét xử sơ thẩm, chấp nhận mức hình phạt tù và các vấn đề miễn hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng của vụ án mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo.

[3.] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo bản án sơ thm: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điềm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Như N 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 04/8/2023. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,04 g (không phẩy không bốn gam) Heroine được niêm phong cùng vỏ vật chứng và vỏ bao bì niêm phong ban đầu. Vật chứng đã được chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự huyện Yên Thành quản lý. Chi tiết vật chứng khi thi hành án thực hiện theo biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho đề cùng ngày 12/10/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Y và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Yên Thành.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Nguyễn Như N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2023/HS-ST

Số hiệu:116/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về