Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2020/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 116/2020/HSPT NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2020/TLPT-HS ngày 07/4/2020 đối với bị cáo Trần Viết K, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2020/HSST ngày 17/02/2020 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: TRẦN VIẾT K; Sinh năm 1994, tại Đắk Lắk.

Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Thôn T, thị trấn A, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Viết C (đã chết) và con bà Nguyễn Thị D; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/9/2019, đến ngày 29/9/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Võ Công Đ, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn 5, xã BH, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Bá Vũ E, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn HC, xã BH, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

- Anh Đỗ Xuân F, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Thôn X, xã LT, huyện TN, thành phố HP – Vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn 7, xã EK, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

- Chị H’H Mlô, sinh năm 2000.

Địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Đinh Văn I, Phạm Hải J nhưng không có kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Viết K, Đinh Văn I và Phạm Hải J là bạn bè, đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Tối ngày 19/9/2019, K tổ chức sinh nhật tại huyện B, tỉnh Đắk Lắk cùng với I và Võ Công Đ – sinh năm 1995; HKTT: Thôn 5, xã BH, huyện B, tỉnh Đắk Lắk và Nguyễn Bá Vũ E – sinh năm 1994; HKTT: Thôn HC, xã BH, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, I điều khiển chiếc xe ô tô hiệu Chevrolet BKS 29A – 218.83 chở K, Đ, F lên thành phố B đến quán SH, địa chỉ số 285 PCT, thành phố B để nhậu tiếp. Một lúc sau có thêm J, Đỗ Xuân F – sinh năm 1999; HKTT: Thôn X, xã LX, huyện TN, thành phố HP, Nguyễn Thị G – sinh năm 1995; HKTT: Thôn 7, xã EK, huyện CK, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi nhậu xong, khoảng 01 giờ 00 phút ngày 20/9/2019, K cùng với J, I và một số người bạn còn lại cùng đến khách sạn TT, địa chỉ số 07 CĐ, phường TL, thành phố B thuê phòng 406 nghỉ lại. Tại đây K, I, J cùng rủ nhau góp tiền mua 06 viên ma túy loại thuốc lắc và 03 chấm khay (ma túy Ketamine) về sử dụng. J sử dụng điện thoại hiệu Iphone 7plus gắn sim thuê bao 0972.444.247 gọi cho một người nam giới tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) theo số điện thoại 0905.369.928 hỏi mua ma túy thì được người này báo giá là 7.000.000 đồng. J đưa cho K 1.000.000 đồng trước để góp tiền mua ma túy, còn K chưa có tiền nên nói I chi tiền trước, rồi K, J tiếp tục góp tiền trả sau thì I đồng ý, đồng thời K đưa cho I số tiền mà J đã đưa trước đó. Sau đó I chở E đi rút tiền giúp I 6.000.000 đồng mà trước đó I có gửi nhờ tài khoản Ngân hàng của E rồi chở E về lại khách sạn TT để nghỉ ngơi. I điều khiển xe ô tô hiệu Chevrolet BKS 28A – 218.83 chở J cùng đi mua ma túy. Khi đến khu vực hẻm số 23 đường NK, phường TL, thành phố B J xuống xe và đi bộ đến gặp Q và đưa số tiền 7.000.000 đồng thì được người này đưa cho 01 (một) gói nylon bên trong có 06 viên thuốc lắc và 03 chấm khay. Mua được ma túy, I và J quay về lại khách sạn. Tại đây J đưa cho K 01 viên thuốc lắc và 01 chấm khay, K sử dụng hết 01 viên thuốc lắc; đưa cho I 01 viên thuốc lắc, I và F mỗi người sử dụng ½ viên; J và Đ 01 viên thuốc lắc, mỗi người sử dụng ½ viên. Lúc này có thêm H’ H MLô – sinh năm 2000; HKTT: Tổ dân phố 6, thị trấn KN, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk cũng đến chơi. Sau khi sử dụng ma túy loại thuốc lắc xong K, J tiếp tục đổ ma túy dạng khay ra dĩa sứ để cùng với I, Đ, F sử dụng. Đến khoảng 03 giờ 00 phút ngày 20/9/2019 thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra phòng, phát hiện thu giữ dưới sàn nhà có 01gói nylon bên trong có 03 viên nén màu hồng hình lục giác, 01 gói nylon bên trong có chất rắn dạng cục màu trắng và 01 ít chất rắn dạng bột màu trắng để trong dĩa sứ đặt trên bàn đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Tại Kết luận giám định số 803/GĐMT-PC09 ngày 27/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận:

-03 (ba) viên nén hình lục giác màu hồng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,1605 gam, loại MDMA.

-Chất rắn dạng bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1888 gam, loại Ketamine.

-Chất tinh thể dạng cục màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3531 gam, loại Ketamine.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 1,7024gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2020/HSST ngày 17/02/2020 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Viết K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Viết K 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 20/9/2019 đến ngày 29/9/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Đinh Văn I, Phạm Hải J; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25 tháng 02 năm 2020, bị cáo Trần Viết K kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Viết K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã phân t ch, đánh giá t nh chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét mức hình phạt 02 (hai) năm tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo K là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo cung cấp “Giấy khen” đã có thành t ch xuất sắc trong học tập, công tác Đoàn tại địa phương, bị cáo có bà ngoại là bà Nhữ Thị M là người có công với cách mạng. Do đó, cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 - Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 03 giờ 00 phút ngày 20/9/2019, tại phòng 406 khách sạn TT, địa chỉ số 07 CĐ, phường TL, thành phố B, lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Trần Viết K, Đinh Văn I và Phạm Hải J có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới sàn nhà trong phòng 1 gói nylon bên trong có 03 viên nén màu hồng hình lục giác là ma túy loại MDMA có khối lượng 1,1605 gam và 01 gói nylon bên trong đựng chất rắn cục màu trắng cùng một ít chất bột màu trắng để trong dĩa sứ đặt trên bàn là ma túy loại Ketamine có tổng khối lượng 0,5419 gam. K, I, J đều thừa nhận đây là ma túy mà ba người cùng góp tiền mua về để sử dụng nhưng chưa sử dụng hết thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Viết K với mức hình phạt 02 (hai) năm tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, mặc dù bị cáo Trần Viết K là người khởi xướng việc mua ma túy về sử dụng. Tuy nhiên, bị cáo K không có tiền và không biết chỗ để mua ma túy nên các bị cáo J, I là người trực tiếp góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy về sử dụng. Các bị cáo J, I là người thực hành tích cực trong việc mua ma túy về sử dụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo K với mức hình phạt cao hơn bị cáo J, I là chưa tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo K nộp giấy khen về việc đạt huy chương vàng môn Vôvinam trong Hội khỏe phù đổng cấp tỉnh năm 2012; giấy khen về việc đã có thành tích xuất sắc trong phong trào tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng năm 2014, bị cáo có bà ngoại là bà Nhữ Thị M là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Viết K.

Từ các phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3] Về án phí: Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Viết K.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2020/HSST ngày 17/02/2020 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Tuyên bố: Bị cáo Trần Viết K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Viết K 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 20/9/2019 đến ngày 29/9/2019.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Viết K không phải chịu án ph hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 116/2020/HSPT

Số hiệu:116/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về