Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YD, TỈNH BG

BẢN ÁN 114/2023/HS-ST NGÀY 18/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 12 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm phòng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh BG và điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh BG, Tòa án nhân dân huyện YD, tỉnh BG xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số số 116/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2023/QĐXXST-HS ngày 07/12/2023, đối với bị cáo:

DKB, sinh năm 2000; nơi cư trú: thôn LĐ, xã NT, huyện BS, tỉnh LS; chỗ ở: tổ dân phố MD1, TTN, huyện VY, tỉnh BG; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 09/12; con ông DTD, sinh năm 1980 và bà BTN, sinh năm 1979; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không có; bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/10/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh BG. (Có mặt) 

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị DTT, sinh năm 2005; nơi cư trú: Thôn LĐ, xã NT, huyện BS, tỉnh LS. (Vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh NVT, sinh năm 1989, địa chỉ: T D, xã HG, huyện YD, tỉnh BG. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do bị nghiện chất ma tuý nên khoảng 14 giờ ngày 07/10/2023, DKB, sinh năm 2000 thường trú tại thôn LĐ, xã NT, huyện BS, tỉnh LS, ở trọ tại tổ dân phố MD1, TTN, huyện VY, tỉnh BG mượn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát, 12B1-202.3x của chị DTT, sinh năm 2005 ở cùng thôn và ở cùng khu trọ rồi điều khiển xe mô tô đi đến địa phận địa phận thành phố BN, tỉnh BN tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi B đi đến một đoạn đường vắng người thuộc địa phận thành phố BN thì B nhìn thấy có một người đàn ông không quen biết đang đứng trên vỉa hè đường, B đi đến hỏi người này “có ma tuý heroin bán không” thì người này trả lời là “có”. B nói với người đàn ông này bán cho 700.000 đồng ma tuý heroin và đưa tiền cho người đàn ông này thì người này cầm tiền và đưa cho B 04 đoạn ống nhựa màu hồng có đường kẻ trắng và 03 đoạn ống nhựa màu trắng có đường kẻ màu hồng, bên trong các đoạn ống nhựa đều chứa ma tuý và được hàn kín 2 đầu. B cầm 07 đoạn ống nhựa này cất giấu vào trong túi quần bên phải phía sau đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về để sử dụng. Khoảng 16 giờ 40 phút cùng ngày, B đi về đến nghĩa trang nhân dân thôn Chiền, xã NH, huyện YD để sử dụng thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YD bắt quả tang.

Tang vật thu giữ gồm: Thu giữ tại túi quần phía sau bên phải B đang mặc 07 đoạn ống nhựa được hàn kín 02 đầu, trong đó có 04 đoạn ống nhựa màu hồng có đường kẻ màu trắng, 03 đoạn ống nhựa màu trắng có đường kẻ màu hồng, bên trong 07 đoạn ống nhựa đều chứa chất cục bột màu trắng nghi là ma túy nên được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”; thu giữ của B 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12B1-202.3x.

Ngày 07/10/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện YD đã ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và khối lượng chất ma túy thu giữ khi bắt quả tang. Tại Bản kết luận giám định số 1879 ngày 09/10/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BG kết luận: “Trong 01 phong bì có ký hiệu “QT”, được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 07 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu (trong đó có 04 đoạn ống nhựa màu hồng, có đường kẻ màu trắng và 03 đoạn ống nhựa màu trắng có đường kẻ màu hồng) đều là ma túy, có khối lượng 0,446 gam, loại Heroine. Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì ký hiệu “QT”, bên trong có 07 đoạn ống nhựa đựng chất ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện YD để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra, DKB đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 116/CT-VKSYD ngày 21/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD đã truy tố DKB về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo B đã khai nhận toàn bộ nội dung, diễn biến hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì.

Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện YD giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo DKB từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2023; miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo; áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật Hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư ký hiệu “QT” dán kín, niêm phong hoàn lại sau giám định; áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo nhất trí với nội dung bản luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện YD và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ các điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện nội dung vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 07/10/2023, tại nghĩa trang nhân dân thôn Chiền, xã NH, huyện YD, tỉnh BG. DKB, sinh năm 2000 ở thôn LĐ, xã NT, huyện BS, tỉnh LS hiện trọ ở tổ dân phố MD1, TTN, huyện VY, tỉnh BG đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YD bắt quả tang. Tang vật thu giữ trong túi quần phía sau bên phải B đang mặc 07 đoạn ống nhựa được hàn kín bên trong đều đựng chất cục bột màu trắng được giám định là ma túy Heroine có tổng khối lượng 0,446 gam. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện YD, tỉnh BG truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ.

[4] Khi quyết định về tội danh, hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: [4.1] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn bởi ma tuý là chất gây nghiện làm băng hoại sức khoẻ của con người, là hiểm hoạ của đại dịch HIV và là nguồn gốc dẫn đến biết bao loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4.2] Xét về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4.3] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4.4] Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội như trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, không chỉ giúp giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tuân thủ pháp luật mà còn răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội này trong xã hội. Tuy nhiên, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Việc xử phạt bị cáo với mức hình phạt trong khung đề nghị như Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[5] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra Hội đồng xét xử còn áp dụng khoản 5 điều 249 của Bộ luật Hình sự để phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có công ăn việc làm hay thu nhập gì ổn định, sau khi phạm tội bị bắt tạm giam, không có điều kiện đảm bảo cho khoản tiền phạt nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì ký hiệu “QT” bên trong có 07 đoạn ống nhựa đựng chất ma tuý Heroin được hoàn lại sau giám định (tổng khối lượng 0,398 gam), đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho B, do B không biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

[8] Đối với chị DTT là người cho B mượn xe mô tô nhưng chị T không biết B sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[9] Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 12B1-202.3x: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên tên chủ xe là anh Nông Minh Đ, sinh năm 2001 ở thôn Pác Nàng, thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia, tỉnh LS. Khoảng tháng 4/2023, anh Đ đã bán lại chiếc xe mô tô này cho chị DTT nên ngày 27/10/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T chiếc xe mô tô trên là phù hợp với khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội.

[11] Ngoài ra, cần áp dụng Điều 331, Điều 333, khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án.

[12] Từ những phân tích đánh giá như trên, Hội đồng xét xử thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333; khoản 1 Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Hình phạt: Xử phạt bị cáo DKB 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2023.

2. Vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư hoàn lại sau giám định đã được dán kín, niêm phong mặt trước đề ký hiệu “QT” được niêm phong bằng dấu tròn mực đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BG, chữ ký của giám định viên, chữ ký giáp lai của các thành phần tham gia niêm phong và dấu tròn mực đỏ của Công an xã NH (theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/11/2023).

3. Án phí: Bị cáo DKB phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

5. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2023/HS-ST

Số hiệu:114/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Dũng - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về