Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 114/2021/HSST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2021/TLST-HS ngày 22-3-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2021/QĐ-HSST ngày 23-4-2021 đối với bị cáo:

Đỗ Sỹ T - sinh năm 1994 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Xóm 2, thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Sỹ T và bà Bùi Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 12 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Lư Tuấn M - sinh năm 1986; anh Lê Anh T - sinh năm 1988 (anh M và anh T vắng mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 26-12-2020, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư đường B - T, phường B, thành phố N phát hiện Đỗ Sỹ T ngồi trên xe máy biển kiểm soát H9- 2475 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp từ tay phải 01 túi ni lông màu trắng, kích thước khoảng 3cm x 3cm, tổ công tác đã tiến hành thu giữ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (T khai đó là gói ma túy đá). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Công an thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của T chiếc xe máy biển kiểm soát H9-2475; 01 điện thoại di động màu xanh đen mặt sau có chữ Redmi bị vỡ.

Bản kết luận giám định số 1374/GĐKTHS ngày 28-12-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng, kích thước khoảng 3cm x 3cm, thu giữ của Đỗ Sỹ T được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng mẫu: 0,230 g (không phẩy hai ba không gam).

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Sỹ T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 26-12-2020, T điều khiển xe máy biển kiểm soát H9-2475 đi từ nhà đến khu vực ngã tư đường B - T, phường B thành phố N thì gặp Duy (là bạn nghiện không rõ lai lịch, địa chỉ). T nhờ Duy mua hộ 150.000 đồng ma túy đá. D đồng ý, cầm tiền T đưa rồi bảo T đứng đợi ở ngã tư còn D đi mua ma túy. Khoảng 10 phút sau D quay lại đưa cho T 01 gói ma túy đá được gói trong túi ni lông màu trắng, kích thước khoảng 3cm x 3cm rồi D đi đâu T không biết. T cầm gói ma túy đá D vừa đưa trên tay phải lên xe định đi về để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Cơ quan điều tra phối hợp với Công an phường B, thành phố N tiến hành xác minh người đàn ông tên D, theo T khai đã mua hộ ma túy cho T. Công an phường B cung cấp: Tại khu vực ngã tư đường T - B, phường B, thành phố N không có người nào tên D, có đặc điểm nhận dạng như mô tả của T.

Bản cáo trạng số 95/CT-VKSTPNĐ ngày 22-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Đỗ Sỹ T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Đỗ Sỹ T xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Sỹ T theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Sỹ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động màu xanh đen mặt sau có chữ Redmi bị vỡ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Sỹ T có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 20 giờ ngày 26-12-2020, tại khu vực ngã tư đường B - T, phường B, thành phố N, Đỗ Sỹ T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,230 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 1374/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động màu xanh đen mặt sau có chữ Redmi là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với đối tượng mua hộ ma túy cho Đỗ Sỹ T và chiếc xe máy biển kiểm soát H9-2475 tạm giữ của T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Đỗ Sỹ T bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Sỹ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Sỹ T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo Th từ ngày 26 tháng 12 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 1374/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động màu xanh đen mặt sau có chữ Redmi bị vỡ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22-3-2021).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Sỹ T phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Sỹ T được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 114/2021/HSST

Số hiệu:114/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về