Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 112/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 110/2024/HSST ngày 18 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn T, sinh năm 1964, tại S, S.

Nơi cư trú: Bản Chiềng V, xã Chiềng Ph, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Ch và bà Lường Thị Ph (đã chết); bị cáo có vợ là Lường Thị G và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2024 cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 04/01/2024 tổ công tác Công an xã Chiềng Ph, huyện S, tỉnh S tiến hành rà soát, test thử ma túy đối với người nghiện ma túy tại bản Chiềng V, xã Chiềng Ph, huyện S. Khi Tổ công tác đến lán nương của Lường Văn T, sinh năm 1964, cư trú tại bản Chiềng V, xã Chiềng Ph, S yêu cầu T có đồ vật, tài liệu cấm thì đem ra giao nộp cho tổ công tác thì T lấy từ đầu giường ra giao nộp 01 (một) gói nilon màu hồng bên trong có chứa chất bột liên kết màu trắng và các mảnh màu hồng, T khai nhận là Heroine và hồng phiến cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lường Văn T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng niêm phong.

Ngày 05/01/2024 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện S, tỉnh S đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định, niêm phong mẫu giám định và vật chứng. Kết quả cân tịnh:

Cân tách bì chất bột liên kết màu trắng và mảnh màu hồng trong gói nilon màu hồng được tổng khối lượng là 0,19 gam. Trích toàn bộ 0,19 gam làm mẫu giám định, ký hiệu là L.

Kết luận giám định số: 270/KL-KTHS ngày 10/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S. Kết luận:

"Mẫu ký hiệu T gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine và Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,19 gam; Loại Methamphetamine và Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất".

Quá trình điều tra bị cáo Lường Văn T khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 11 giờ 00 ngày 04/01/2024, T mang theo số tiền 50.000đ (Năm mươi ngàn đồng) là tiền do lao động tiết kiệm mà có, đang trên đường đi làm nương về thuộc bản Chiềng V, xã Chiềng Ph, S, S thì gặp một nam thanh niên dân tộc Thái, không biết tên, tuổi, địa chỉ đang đi bẫy chim giống người nghiện ma túy, T đến gần hỏi người nam thanh niên “Có ma túy bán không” thì nam thanh niên bảo có, T đưa số tiền 50.000đ cho nam thanh niên, rồi nam thanh niên lấy trong túi áo ngực ra 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa Heroine và Hồng phiến trộn lẫn với nhau cho T. Mua được ma túy T cất giấu trong túi quần phía trước đang mặc rồi đi bộ về lán nương, còn nam thanh niên đi đâu không rõ. Đến lán nương T trích một phần nhỏ ra sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp vào cơ thể, số ma túy còn lại T cất giấu trên đầu giường ngủ trong lán nương. Đến khoảng 17 giờ 30 cùng ngày thì tổ công tác Công an xã Chiềng Ph đến lán nương để test thử chất ma túy đối với T và yêu cầu nếu có đồ vật, tài liệu vi phạm pháp luật thì mang ra giao nộp, T đã lấy gói ma túy trên đầu giường ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác Công an xã Chiềng Ph đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng niêm phong.

Cáo trạng số 54/CT-VKSSM ngày 18 tháng 03 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện S để xét xử bị cáo Lường Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lường Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lường Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

Về án phí: Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.

Bị cáo Lường Văn T không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 04/01/2024 bị cáo Lường Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,19 gam ma túy, gồm các loại Heroine và Methamphetamine. Tổng khối lượng của 02 chất ma túy là 0,19 gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Lường Văn T thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có bố đẻ là ông Lường Văn Chaư được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về các vấn đề có liên quan: Đối với nam thanh niên dân tộc Thái không rõ danh tính là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại khu vực thuộc bản Chiềng V, xã Chiềng Ph, huyện S vào ngày 04/01/2024. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lường Văn T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/01/2024.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu để tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở (các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 0021320).

Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 52/QĐ-VKS ngày 18/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 16 giờ 45 phút ngày 21 tháng 03 năm 2024 giữa Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lường Văn T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 11/4/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2024/HS-ST

Số hiệu:112/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về