TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 112/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 115/2021/TL- HSST ngày 18 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2021, đối với:
- Bị cáo: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1989; nơi cư trú: Cụm X, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc H và bà Phạm Thị C; có vợ, có 03 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/8/2010, bị Toà án nhân dân huyện Đan Phượng xử phạt 6.000.000 đồng về tội Đánh bạc, đã nộp ngày 01/3/2011. Ngày 15/9/2011, bị Uỷ ban nhân dân huyện Đan Phượng ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (cai nghiện) 24 tháng, danh bản, chỉ bản số 270 ngày 12/7/2021 do Công an huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội lập, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2021 đến nay; bị cáo có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Luật sư Phạm Hồng K và luật sư Nguyễn Văn T, Công ty Luật C thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội, ông K có đơn xin xét xử vắng mặt, ông T có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Hoài P, sinh năm 1997; nơi cư trú: Cụm X, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Công C, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn X, xã C, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 26/6/2021, Nguyễn Văn Đ sinh năm 1989 rủ chị Nguyễn Thị Hoài P sinh năm 1997 cùng ở Cụm X, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội (là vợ của Đ) đi đến nhà bạn Đ ở xã C chơi nhưng mục đích của Đ là đi mua ma tuý Heroin để sử dụng cho bản thân. Sau đó, Đ điều khiển xe máy BKS 29X3- X chở chị P ngồi sau đến khu vực nhà văn hoá thôn 8, xã C, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Đ bảo chị P xuống xe đứng đợi Đ ở gốc cây đa gần đó rồi Đ điều khiển xe máy đi một mình đến khu vực trường cấp 1 thuộc xã C, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội để tìm mua ma tuý. Tại đây, Đ gặp và mua của một người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi (không rõ tên tuổi địa chỉ) 01 gói ma tuý Heroin với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, Đ cầm gói ma tuý vừa mua trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy đến chỗ chị P đang đứng đợi thì bị Công an xã C, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội bắt quả tang và thu giữ 01 gói ma tuý Heroin Đ đang cầm trên tay, 01 xe máy BKS 29X3- X.
Tại Kết luận giám định số 5271 ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma tuý loại Heroin, khối lượng 0,243 gam.
Bản Cáo trạng số 118/CT-VKS-ĐP ngày 18/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Luật sư Phạm Hồng Kiên vắng mặt tại phiên tòa nhưng có bản luận cứ bào chữa cho bị cáo và luật sư Nguyễn Văn Toán tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu, tích cực hợp tác trong việc giải quyết vụ án để áp dụng điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 15 đến 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Nguyễn Văn Đ. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Vụ án xảy ra trên địa bàn huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội nên việc khởi tố, truy tố và xét xử được các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành, nội dung các quyết định theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Tại phiên tòa Nguyễn Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Do nghiện ma tuý nên khoảng 14 giờ 30 ngày 26/6/2021, tại khu vực thôn 8, xã C, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn Đ có hành vi cất giấu 01 gói ma tuý Heroin, khối lượng 0,243 gam với mục đích để sử dụng. Khi Đ đi đến nhà văn hoá thôn 8, xã C để đón chị Nguyễn Thị Hoài P về thì bị Công an xã C kiểm tra phát hiện và thu giữ toàn bộ vật chứng.
Như vậy hành vi cất giấu gói ma túy của Nguyễn Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng truy tố bị cáo theo tội danh và viện dẫn điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đ là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng. Tệ nạn ma túy là vấn đề nhức nhối của xã hội, đặc biệt là trong tình hình hiện nay, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần phải xét xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử về tội Đánh bạc và đã từng đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Văn Đ.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn Đ khai mua ma tóy cña mét ng•êi đàn ông ở khu vực trường cấp 1 xã C, huyện Đan Phượng. Ngoµi lời khai của Đ, kh«ng cã tµi liÖu nào khác chứng minh nªn Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đan Phượng không xử lý là có căn cứ.
Đối với chiếc xe máy BKS 29X3- 193. 71 xác định là xe của chị Nguyễn Thị Hoài P, chị P không biết Đ đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra Công an huyện Đan Phượng đã trả lại cho chị P là có căn.
[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 17 (Mười bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/6/2021.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói sau giám định của phòng PC 09 –CATP Hà Nội đã được niêm phong (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đan Phượng và Chi cục thi hành án huyện Đan Phượng ngày 29/11/2021).
3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Hoài P có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 112/2021/HS-ST
Số hiệu: | 112/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về