Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 225/2023/HSST ngày 28 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

PHẠM THỊ T (tên gọi khác: Bé Ba), sinh năm: 1984, tại tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký thường trú: Số 62 B, phường 27, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: không rõ; con bà Phạm Thị T. Có 03 con.

Tiền sự: Ngày 14/9/2022, bị Ủy ban nhân dân phường Đức Thắng, TP.

Phan Thiết ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 144/QĐ-XPTT, chấp hành xong ngày 14/12/2022.

Tiền án: không;

Nhân thân: Ngày 24/10/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 141/HSST về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong ngày 30/01/2021.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 01/02/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên bị cáo Phạm Thị T đưa 80.000 đồng nhờ T (không rõ nhân thân) đi mua giúp ma túy đá thì T đồng ý. Khoảng 15 phút sau, T mang về đưa cho bị cáo Trâm 01 cái nỏ thủy tinh bên trong có ma túy đá rồi T rời đi. Bị cáo Trâm đem nỏ thủy tinh bên trong có ma túy đá đi vào phòng ngủ gắn nỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi sử dụng. Khi T đang sử dụng ma túy thì bị Công an phường Đức Thắng kiểm tra, phát hiện, thu giữ tang vật và đưa về trụ sở làm việc.

Vật chứng của vụ án:

01 chai nhựa có nắp đậy, bên trên nắp đục 02 lỗ, 01 lỗ được gắn ống hút nhựa, 01 lỗ được gắn ống thủy tinh uốn cong thổi phồng một đầu, tại vị trí được thổi phồng có chứa tinh thể màu vàng nhạt (kí hiệu M khi giám định).

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số: 153/KLGĐ-PC09 ngày 14/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2081 gam là Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận nêu trên.

Bản cáo trạng số 244/CT – VKSPT-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Thị T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thị T với mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

2 Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu huỷ 01 chai nhựa có nắp đậy, bên trên nắp đục 02 lỗ, 01 lỗ được gắn ống hút nhựa và 01 ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu cùng 0,1740 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 153, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Lời nói sau cùng của bị cáo Phạm Thị T: Bị cáo biết hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 01/02/2023 tại nhà số 117/2/16, đường Vạn Thủy Tú, khu phố 5, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, bị cáo Phạm Thị T có hành vi tàng trữ trái phép 0,2081 gam Methamphetamin để sử dụng thì bị Công an phường Đức Thắng kiểm tra, phát hiện, thu giữ.

Xét thấy Phạm Thị T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức đầy đủ về hành vi của mình đối với xã hội. Bị cáo nhận thức được những tác hại nguy hiểm của ma túy đối với sức khỏe con người, đối với cộng đồng xã hội và việc tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc đối với mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo đã xem thường pháp luật, đã tàng trữ ma túy bất chấp hậu quả. Do đó đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Thị T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 3 như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 chai nhựa có nắp đậy, bên trên nắp đục 02 lỗ, 01 lỗ được gắn ống hút nhựa là vật không có giá trị sử dụng; 01 ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu cùng 0,1740 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 153, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với nguồn gốc ma túy tàng trữ, bị cáo khai nhờ đối tượng tên Tý mua của một đối tượng (không rõ nhân thân). Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết chưa xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Bị cáo Phạm Thị T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 chai nhựa có nắp đậy, bên trên nắp đục 02 lỗ, 01 lỗ được gắn ống hút nhựa và 01 ống thủy tinh được uốn cong và thổi phồng một đầu cùng 0,1740 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 153, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Vật chứng ghi trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 67 ngày 22/12/2023.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Phạm Thị T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/01/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về