Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2023/TLST - HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2023/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo.Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/QĐHPT ngày 14 tháng 11 năm 2023.

Họ và tên: Cà Văn Đ,tên gọi khác: Không; sinh ngày 14 tháng 02 năm 2004 tại xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ học vấn: 8/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Cà Văn H, sinh năm 1978 và con bà Bạc Thị K, sinh năm 1982; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31tháng 8 năm 2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Cà Văn Đ: Bà Trần Bích L – Luật sư, Cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La.Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

2 Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 31/8/2023, Cà Văn Đ, sinh năm 2004, trú tại bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La đi xe buýt từ thành phố S (từ chỗ Đ làm thuê) đến ngã ba xã T, huyện T thì xuống xe và đi bộ tìm mua ma túy để sử dụng. Trên đường đi Đ gặp một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện ma túy đang ngồi ở cạnh đường, nên Đ đến hỏi người đàn ông: “Anh có ma túy bán không?”, người đàn ông trả lời “, sẽ lấy bao nhiêu”, Đ nói “Một trăm nghìn”, sau đó Đ đưa 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) cho người đàn ông đó người đàn ông cầm tiền và đưa cho Đ 01 (một) gói ma túy gồm Heroine và Hồng phiến được gói bằng nilon màu trắng. Mua ma túy xong, người đàn ông đã bán ma túy cho Đ đi đâu, làm gì thì Đ không biết, còn Đ tiếp tục đi xe buýt đến bản K, xã C, huyện Q để thăm ông bà ngoại, khi đến bản N, xã Chiềng K thì Đ xuống xe, đi vào khu rừng cao su ven đường trích lấy một phần nhỏ Heroine từ gói mua được ra sử dụng bằng hình thức hít, số Heroine và Hồng phiến còn lại Đ đập nhỏ ra rồi trộn vào nhau và gói lại như cũ, sau đó Đ cầm gói ma túy ở tay phải rồi đi bộ ra đường Quốc lộ 6B theo hướng trung tâm xã C để đến nhà ông bà ngoại ở bản K, trên đường đi thì bị tổ công tác của Công an huyện Q phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ vật chứng gồm: 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa chất cục bột màu trắng và màu hồng nghi là ma túy do Cà Văn Đ tự giác giao nộp và khai nhận đó là gói ma túy của Đ.

Ngày 31/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Cà Văn Đ, kết quả: Đ dương tính với chất ma túy.

Hồi 15 giờ 40 ngày 31/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La và Viện kiểm sát nhân dân huyện Q tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định vật chứng đối với chất cục bột màu trắng và màu hồng thu giữ của Cà Văn Đ. Kết quả: Tổng khối lượng chất cục bột màu trắng và màu hồng là 0,18 gam (Không phẩy mười tám gam), trích rút toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu A1.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 11/QĐ trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định đối với vật chứng gửi giám định ký hiệu A1 nghi là ma túy thu giữ của Cà Văn Đ.

Tại Kết luận giám định số: 2122/KL-KTHS ngày 04/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine và Heroine [có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất]; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam, loại Methamphetamine và Heroine.

Cáo trạng số: 47/CT-VKS-QN ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo Cà Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Cà Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Q phát biểu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với Cà Văn Đ về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cà Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự - Xử phạt bị cáo Cà Văn Đ từ 16 thángđến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 31/8/2023) Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên tiêu hủy:

- Một phong bì công văn của Công an huyện Q, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Cà Văn Đ - Tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01(một) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098853 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Cà Văn Đ, cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q.

+ Về án phí: Bị cáo là người dân tộc, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quan điểm bào chữa của luật sư Trần Bích L đối với bị cáo Cà Văn Đ, từ khi bị bắt, trong suốt quá trình điều tra, truy tố xét xử và cả tại phiên tòa hôm nay bị cáo luôn thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”.Khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ có khối lượng nhỏ, chỉ 0,18 gam, gần với mức khởi điểm của khung hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo để ra khi lượng hình có sự cân nhắc giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội.Ngoài ra dobị cáo là người dân tộc Thái là dân tộc thiểu số, lại sống ở bản C, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La là vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khănnên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 của Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Từ những phân tích nêu trên, tôi đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm ckhoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51 BLHS để ra một bản án phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo, đồng thời thể hiện tính nhân văn của pháp luật nước ta. Tôi cho rằng do bị cáo đã nhận thức được sai lầm của mình, đã thể hiện sự ăn năn hối cải nên vẫn còn có cơ hội cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích 4 cho xã hội, một bản án với hình phạt từ 16 đến 18 tháng tù là đã rất nghiêm khắc, đủ để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểmxử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q , Điều tra viên Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Q lập vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 31/8/2023, bắt quả tang Cà Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất cục bột màu trắng và màu hồng, khối lượng 0,18 gam (Đ khai nhận là Heroine và Hồng phiến). Kết luận giám định số: 2122/KL-KTHS ngày 04/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine và Heroine [có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất]; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam, loại Methamphetamine và Heroine.

Lời khai của bị cáo về việc ngày 31/8/2023 có mua được 01 gói heroine và Hồng phiến với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) của một người đàn ông đàn ông không quen biết tại khu vực xã T, huyện T, tỉnh Sơn La, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q . Bị cáo Cà Văn Đ khẳng định 5 việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 31/8/2023 bị cáo Cà Văn Đ đã có hành vi tàng trữ 0,18 gam ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ.

[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Cà Văn Đ tàng trữ khối lượng 0,18 gam Heroine và Methamphetamine, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất chất ma túy, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cà Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 249 BLHS.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Cà Văn Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tạikhoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản giá trị lớn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về vật chứng vụ án:

Một phong bì công văn của Công an huyện Q, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Cà Văn Đ - Tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01(một) mảnh nilon màu trắng+ 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098853 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Cà Văn Đ, cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q. Xét thấy, vật chứng trên là vật cấm lưu hành và là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q tại phiên tòa: Quan điểm xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, không có căn cứ điều tra làm rõ. Vì vậy, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[10] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo là người dân tộc sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn– Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn Đ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Cà Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn Đ 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 31/8/2023).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Cà Văn Đ.

7 2. Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.Tịch thu tiêu hủy:

- Một phong bì công văn của Công an huyện Q, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Cà Văn Đ - Tàng trữ trái phép chất ma túy gồm: 01(một) mảnh nilon màu trắng+ 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau tại mép dán giáp lai phong bì được dán đè giấy niêm phong số 098853 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia và chữ ký, họ tên của bị can Cà Văn Đ, cùng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 08/2024 ngày 27/10/2023 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo là người dân sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn– Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn Đ.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 20/11/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về