TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 13/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Cà Văn L (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 17 tháng 10 năm 1975 tại huyện QN, tỉnh Sơn La; nơi đăng ký HKTT: Bản C, xã C huyện QN, tỉnh Sơn La; nơi ở hiện nay: Bản D, xã CN, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Cà Văn M (sinh năm 1939) và con bà Cà Thị B (sinh năm 1941); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 24/7/2023, tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế ma túy - Công an thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản D, xã CN, thành phố Sơn La phát hiện bắt quả tang Cà Văn L, sinh năm 1975, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy bạc, bên trong có chứa 07 viên nén đồng dạng màu hồng, L khai là ma túy Hồng phiến, cất giữ để sử dụng.
Ngày 25/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì, cân tịnh và xác định khối lượng vật chứng. Kết quả: 07 viên nén đồng dạng màu hồng trong gói giấy bạc có tổng khối lượng là 0,70 gam, lấy 03 viên có khối lượng 0,31 gam làm mẫu giám định ký hiệu Đ. Còn lại 04 viên có tổng khối lượng là 0,39 gam ký hiệu T niêm phong làm mẫu lưu kho.
Tại Kết luận giám định số: 1822/KL-KTHS ngày 26/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,31 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,70 gam; loại Methamphetamine, mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Cà Văn L khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 22 giờ 10 phút ngày 24/7/2023, Cà Văn L đi bộ từ chỗ ở tại bản D, xã CN, thành phố Sơn La đến khu vực sân bóng bản D, xã CN, thành phố Sơn La để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực sân bóng, L gặp và hỏi mua được của một người nam giới (L không biết họ tên, địa chỉ) một gói giấy bạc bên trong có chứa 07 (bảy) viên nén đồng dạng màu hồng với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua, L cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ tìm nơi sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Thực hiện điều tra xác minh đối với người nữ giới đã bán trái phép chất ma túy cho Cà Văn L nhưng không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.
Tại bản cáo trạng số: 521/CT-VKSTP ngày 18/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Cà Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội.
Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Cà Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Cà Văn L từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi tư) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc và 0,39 (không phẩy ba mươi) gam Methamphetamine ký hiệu T.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến gì đối đáp với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 24/7/2023, Cà Văn L đã có hành vi cất giữ trái phép 0,70 gam Methamphetamine, hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Lời khai nhận tội của bị cáo; biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 45 phút ngày 24/7/2023 tại bản D, xã CN, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Cà Văn L cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa 07 (bảy) viên nén đồng dạng màu hồng, L khai là ma túy Hồng phiến; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1822/KL-KTHS ngày 26/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Trương Hoàng D, sinh năm 1995, trú tại tổ 03, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang.
Từ các căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cà Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo Cà Văn L phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 0,70 gam, loại Methamphetamine, đã vi phạm vào tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.
Hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bản thân bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2023 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua được của một người nam giới có dáng người gầy, cao khoảng 1m65, khoảng 40 tuổi L không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực sân bóng bản D, xã CN, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng không thu thập được tài liệu chứng cứ gì, do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự toàn bộ đối với số ma túy bị thu giữ.
[9] Vật chứng của vụ án: Đối với 0,30 gam Methamphetamine ký hiệu T hiện đang lưu kho vật chứng, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh giấy bạc, là vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu hủy.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Cà Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Cà Văn L 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (24/7/2023).
Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;
01 mảnh giấy bạc và 0,39 (không phẩy ba mươi chín) gam Methamphetamine ký hiệu T (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 060970 của Công an thành phố Sơn La).
(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2023 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Cà Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/11/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 11/2023/HS-ST
Số hiệu: | 11/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về