TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 111/2022/HS-ST NGÀY 30/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 12 năm 2022 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2022/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2022 đối với:
Bị cáo Lương Văn Th, sinh năm 1998.
Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam HKTT: Thôn Pan Khe, xã Sơn Thành, huyện R, tỉnh B Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Tày. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 10/12. Họ và tên cha: Lương Ngọc LUẬT (đã chết). Họ và tên mẹ: Hứa Thị H (đã chết). Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con út trong gia đình. Vợ: Phan Thị Hoài T, sinh năm 1999(đã ly hôn). Con: Có 01 con Phan Gia B, sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T (bị cáo có mặt tại phiên toà).
Người bào chữa: Ông Hoàng Nhật H – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 45 phút ngày 18/9/2022, tại quán bia hơi của anh Đàm Phương C, sinh năm 1992, ở thôn Ngọ Xá, xã Hoài Thượng, huyện T, tỉnh B, tổ công tác của Công an xã Hoài Thượng trong lúc tuần tra đã phát hiện bắt quả tang và lập biên bản đối với Lương Văn Th, sinh năm 1998, ở thôn Pan Khe, xã Sơn Thành, huyện R, tỉnh B đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm: Thu tại túi quần phía trước bên trái Th đang mặc có 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn màu bạc đã qua sử dụng bên trong có 01 túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon có chứa chất bột màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng. Th khai nhận chất bột màu trắng là ma túy heroine và 01 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy ngựa Th được một người đàn ông tên H1 đưa cho để sử dụng. Thu tại túi quần phía sau bên phải Th đang mặc số tiền 45.000 đồng.
Tại Kết luận giám định số 1498/KL-KTHS ngày 20/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng gửi giám định có khối lượng là 0,2160 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine. 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon màu trắng gửi giám định có khối lượng là 0,0999 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine. Heroine, Methamphetamine là các chất ma túy được quy định tại Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 101/CT-VKSTT ngày 28/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Lương Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà Th khai bản thân là người nghiện chất ma tuý. Do không có việc làm ổn định bị cáo có lên mạng tìm việc làm và có quen biết một thanh niên tên là H1. H1 bảo Th đến huyện T, tỉnh B để đi nấu cỗ thuê, bị cáo đồng ý. Ngày 17/9/2022, Th một mình bắt xe khách từ nhà ở huyện R, tỉnh B đến huyện T, tỉnh B gặp H1, địa điểm gặp thì Th cũng không nhớ. Qua nói chuyện với nhau, H1 biết Th là người nghiện ma túy nên H1 đưa cho Th ma túy để sử dụng, sau đó còn thuê phòng trọ để cho Th nghỉ. Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 18/9/2022, Th một mình đi bộ từ nhà trọ ra khu vực Cây xăng ở khu vực thị trấn Hồ, huyện T, tỉnh B để chờ H1 đến đón. Khi cả hai đang đứng ở phía ngoài đường cách khu vực Cây xăng khoảng 500m thì H1 đưa cho Th 01 bao thuốc lá Sài Gòn, màu bạc, đã qua sử dụng, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon có chứa chất bột màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng và nói với bị cáo “cầm lấy tí sử dụng”. Th biết bên trong là ma túy nên đã cầm bao thuốc lá trên đút vào túi quần phía trước bên trái Th đang mặc rồi đi xe taxi cùng H1. Khi đang ở trên xe, H1 rủ Th đi uống bia, Th đồng ý. Sau đó, cả hai đi đến quán bia hơi của anh Đàm Phương C để uống bia. Một lúc sau, H1 đứng dậy đi vệ sinh rồi bỏ đi đâu Th không biết, còn Th vẫn ngồi uống bia. Khi Th đang uống bia thì bị tổ công tác của Công an xã Hoài Thượng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày bản luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lương Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự xử phạt Th từ 13 đến 19 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2022. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B và chữ ký của Giám định viên. Tịch thu tiêu huỷ 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn màu bạc đã qua sử dụng. Do bị cáo tự nguyện không nhận lại số tiền 45.000 đồng nên thu sung quỹ Nhà nước. Về án phí do bị cáo là dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế khó khăn nên miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo Th nhận tội, không tham gia tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Người bào chữa cho bị cáo Th cũng xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma tuý, nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật hình sự đúng như bản Cáo trạng đã truy tố. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo lại là người dân tộc nên việc nhận Thc pháp luật còn hạn chế, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền cũng như miễn cho bị cáo tiền án phí. Kiểm sát viên tranh luận với ý kiến của người bào chữa cho rằng bị cáo tuy là người dân tộc nhưng bị cáo cũng đã học hết lớp 10, có đủ nhận Thc để nhận biết pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Pháp luật cũng không quy định tính tiết người dân tộc thiểu số, người sống trong điều kiện khó khăn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự.
Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn Th tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được: Vào hồi 17 giờ 45 phút ngày 18/9/2022, tại quán bia hơi của anh Đàm Phương C ở thôn Ngọ Xá, xã Hoài Thượng, huyện T, tỉnh B. Lực lượng Công an đã bắt quả tang Lương Văn Th có hành vi tàng trữ trái phép phép 0,3159 gam ma túy (gồm có 0,2160 gam loại ma túy Heroine và 0,0999 gam loại ma túy Methamphetamine) tại túi quần phía trước bên trái Th đang mặc, mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Lương Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2]. Về nguyên nhân, mục đích và tính chất của hành vi phạm tội: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, bị cáo là người có dùng chất ma tuý, bị cáo phạm tội tàng trữ ma tuý với mục đích sử dụng cho bản thân. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho cộng đồng và xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, về sâu xa nó cũng là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật cũng như gây lên mâu thuẫn trong gia đình, để lại hệ lụy xấu cho xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là loại tội phạm mà cả xã hội đang lên án mạnh mẽ và tích cực đấu tranh. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục chung, cải tạo riêng.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo cũng đã nhận Thc được tính chất nguy hiểm cho bản thân và xã hội khi sử dụng ma tuý. Vì thế bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Đối với ý kiến của người bào chữa cho rằng bị cáo là người dân tộc nên nhận Thc pháp luật có hạn chế, cũng như bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện khó khăn nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo cũng đã học hết lớp 10/12 nên bị cáo có nhận Thc đầy đủ, mặt khác pháp luật cũng không quy định tình tiết người phạm tội là người dân tộc, tình tiết sinh sống trong vùng có điều kiện khó khăn là tình tiết giảm nhẹ hình phạt nên không chấp nhận ý kiến này của người bào chữa, đây những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.
Ngoài hình phạt chính điều luật còn quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Xét thấy bị cáo là người có dùng ma tuý, điều kiện kinh tế cũng có khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[3]. Đối với người thanh niên tên H1, Th khai là người đã đưa ma túy cho Th cầm để cùng sử dụng, do Th không biết họ tên đệm, tuổi và địa chỉ cụ thể của H1. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh B tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ xem xét sử lý sau.
[4]. Tang vật vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ. Tịch thu tiêu huỷ 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn màu bạc đã qua sử dụng. Đối với số tiền 45.000 đồng tạm giữ của Th, đây là tài sản không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên tại phiên toà bị cáo tự nguyện không nhận lại tài sản này nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[5]. Về án phí: Bị cáo sinh sống trong vùng có điều kiện kinh tế khó khăn lại là hộ nghèo nên miễn án phí cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lương Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, tuyên xử.
1. Xử phạt Lương Văn Th 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2022.
Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 30/12/2022 để đảm bảo thi hành án.
2. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật chứng còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Bên ngoài phong bì có ghi “Mẫu vật hoàn lại sau giám định trong vụ Lương Văn Th, sinh năm 1988 ở Pan Khe, Sơn Thành, R, B có hành vi tàng trữ ma tuý”. Tịch thu tiêu huỷ 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn màu bạc đã qua sử dụng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 45.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2022 giữa Công an huyện T với Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh B).
3. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Th.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Th được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 111/2022/HS-ST
Số hiệu: | 111/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về